image banner
Truyền thống lịch sử Đảng bộ huyện Lang Chánh tỉnh Thanh Hóa: (Phần 6)
ĐẢNG BỘ HUYỆN LANG CHÁNH LÃNH ĐẠO PHÁT HUY SỨC MẠNH TỔNG HỢP, THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG (1986 - 1995)

Tình hình thế giới giữa những năm 80 của thế kỷ XX đã diễn ra những biến đổi to lớn, sâu sắc. Các nước tư bản chủ nghĩa đã nhanh chóng thích ứng và sử dụng hiệu quả thành tựu khoa học - công nghệ hiện đại nên đã vượt qua được những khó khăn, kinh tế từng bước phát triển. Nhiều nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng. Để thoát khỏi tình trạng đó, cải tổ, cải cách và đổi mới trở thành xu thế khách quan của nhiều nước xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, trong quá trình cải cách, các nước theo mô hình chủ nghĩa xã hội mắc phải những sai lầm và lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng.

Bối cảnh thế giới và khu vực gây khó khăn, cản trở cho sự phát triển của cách mạng Việt Nam. Đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới là một trong những thách thức lớn đối với cách mạng Việt Nam. Vì vậy, Đảng ta đã từng bước khảo nghiệm thực tiễn, tìm tòi con đường đổi mới và thực tiễn đổi mới từng phần. Tuy nhiên, tình hình kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân vẫn còn nhiều vấn đề cấp bách chưa giải quyết được, lòng tin của dân vào Đảng, Nhà nước và chế độ đã có sự suy giảm.

Trước tình hình trên, từ ngày 15 đến ngày 18 tháng 12 năm 1986, Đảng ta đã tiến hành Đại hội lần thứ VI tại thủ đô Hà Nội. Đại hội tổng kết công cuộc xây dựng, bảo vệ xã hội chủ nghĩa, khẳng định những thành tựu to lớn toàn diện trên tất cả các lĩnh vực và đánh giá những khó khăn và hạn chế. Với tinh thần tôn trọng sự thật, nhìn thẳng vào sự thật, Đại hội đã chỉ ra những nguyên nhân khách quan và những sai lầm khuyết điểm, trong đó sai lầm về bố trí cơ cấu kinh tế, cơ chế quản lý, phân phối lưu thông, cải tạo xã hội chủ nghĩa, coi đó là những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện; những khuyết điểm trong hoạt động tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ của Đảng.

Đại hội đã đưa ra quan điểm mới về cải tạo xã hội chủ nghĩa, tập trung ở các nguyên tắc sau: Nhất thiết phải theo quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất để xác định bước đi và hình thức thích hợp. Phải xuất phát từ thực tế nước ta và là sự vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin coi nền kinh tế nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ. Trong công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa phải xây dựng quan hệ sản xuất mới trên 3 mặt xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, chế độ quản lý và chế độ phân phối xã hội chủ nghĩa.

Đại hội xác định nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát của những năm còn lại trong chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những điều kiện cần thiết tiến hành công nghiệp hóa.

Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát, Đại hội đã đề ra đường lối đổi mới trên tất cả các lĩnh vực. Trước hết là đổi mới kinh tế với các nội dung, như sau: đổi mới cơ cấu kinh tế; đổi mới về cơ chế quản lý kinh tế; đổi mới và tăng cường vai trò quản lý, điều hành của Nhà nước về kinh tế; đổi mới hoạt động kinh tế đối ngoại và đổi mới tư duy lý luận và phong cách lãnh đạo của Đảng. Nhấn mạnh trong đổi mới cơ cấu kinh tế, chú trọng vào bước chuyển từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang kinh tế hàng hóa, phát triển sản xuất hàng hóa. Có chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế khác ngoài kinh tế xã hội chủ nghĩa. Xác định nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng trong thời kỳ quá độ.

Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế: Bố trí lại cơ cấu sản xuất, điều chỉnh lại cơ cấu đầu tư, tập trung thực hiện ba chương trình kinh tế lớn. Đó là các chương trình về sản xuất lương thực, thực phẩm; sản xuất hàng tiêu dùng và sản xuất hàng xuất khẩu.

Để xác lập và vận hành cơ chế quản lý mới cần cải cách bộ máy Nhà nước, Đảng phải đổi mới nhiều mặt để tăng cường sức chiến đấu và năng lực tổ chức thực tiễn: Đổi mới tư duy - trước hết là tư duy kinh tế, đổi mới tổ chức - cán bộ, đổi mới phong cách lãnh đạo và phương pháp công tác.

Đại hội lần thứ VI của Đảng thành công tạo điều kiện cơ bản lãnh đạo toàn dân tộc tiến hành sự nghiệp đổi mới sâu sắc toàn diện, xây dựng bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Sau 10 năm cùng cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội, Thanh Hóa đã đạt được một số kết quả nổi bật ở một số lĩnh vực, song tình hình vẫn chưa thoát khỏi khó khăn, khủng hoảng về kinh tế - xã hội. Trước hoàn cảnh đó, từ ngày 23 đến ngày 29 tháng 10 năm 1986, Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XII được tiến hành. Đảng bộ tỉnh đã quán triệt tinh thần của Đảng là nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật để đánh giá chặng đường hơn 10 năm Đảng bộ lãnh đạo nhân dân Thanh Hóa xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cùng với việc khẳng định những kết quả đạt được, Đảng bộ đã nghiêm khắc kiểm điểm, chỉ rõ những sai lầm, khuyết điểm cũng như những nguyên nhân của sai lầm, khuyết điểm và đề ra phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp lãnh đạo nhân dân tỉnh nhà tiến hành đổi mới quê hương. Đại hội đã chỉ ra 5 nhiệm vụ cơ bản:

1. Phải xuất phát từ sản xuất lương thực, thực phẩm, hàng xuất khẩu, hàng tiêu dùng phong phú, đa dạng mà đi lên. Với cơ cấu kinh tế chung của toàn tỉnh là nông - lâm - công nghiệp - dịch vụ. Ở từng ngành, từng vùng, từng huyện, từng cơ sở phải tìm ra cơ cấu kinh tế sát hợp.

2. Phải gắn liền kinh tế - xã hội với chiến lược phát triển con người, lấy giáo dục phổ thông và bảo vệ sức khỏe cho nhân dân làm cơ bản.

3. Thực hiện đường lối quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân, an ninh nhân dân. Lấy dân làm gốc, lấy cơ sở làm nền tảng, lấy sức mạnh tại chỗ là chính.

4. Tập trung sức mạnh tổng hợp khai thác tiềm năng thế mạnh của 04 vùng kinh tế. Trọng điểm là khai thác thế mạnh trung du, miền núi, miền biển, tạo thế ổn định, đi lên vững chắc của vùng đồng bằng.

5. Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, ý chí cách mạng tiến công, đổi mới tư duy, đổi mới tổ chức - cán bộ, tiếp cận tiến bộ khoa học - kỹ thuật hiện đại, thực hiện cơ chế quản lý mới, sáng tạo cách làm, đi lên với tốc độ nhanh, chất lượng và hiệu quả cao.

Dưới ánh sáng của Đại hội lần thứ VI của Đảng, Đại hội lần thứ XII của Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa, Đảng bộ và nhân dân Lang Chánh tích cực tiến hành sự nghiệp đổi mới bằng khí thế và quyết tâm mới.

I. TÌM HƯỚNG ĐI THÍCH HỢP, THÁO GỠ KHÓ KHĂN, BƯỚC ĐẦU THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG (1986 - 1990)

1. Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XV

Vào giữa thập kỷ 80 của thế kỷ XX, cũng như tình hình chung của tỉnh và cả nước, huyện Lang Chánh gặp những khó khăn ngày càng gay gắt về kinh tế - xã hội. Đời sống cán bộ, công nhân, viên chức và đồng bào các dân tộc trong huyện thiếu đói lương thực, hàng hóa khan hiếm nghiêm trọng. Phân phối lưu thông bế tắc, sản xuất lương thực tuy có đôi phần phát triển do tác động của khoán 100 nhưng vì phần thu của hợp tác xã quá lớn nên sản xuất có phần chững lại. Do đời sống quá khó khăn, niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng giảm sút. Đứng trước những khó khăn thách thức đó, đường lối đổi mới của Đảng như làn gió mới nhanh chóng lan tỏa và đi vào đời sống chính trị xã hội, được Đảng bộ và nhân dân Lang Chánh hồ hởi đón nhận để cùng cả nước tiến hành sự nghiệp đổi mới.

Trên tinh thần đổi mới của Đảng, Đảng bộ huyện Lang Chánh tổ chức Đại hội lần thứ XV trong 5 ngày (từ ngày 16 đến ngày 20 - 9 - 1986), tham dự Đại hội có 120 đại biểu chính thức. Đại hội đã tiến hành thảo luận Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa XIV trình Đại hội khóa XV; đóng góp ý kiến cho Dự thảo Báo cáo Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa V trình Đại hội lần thứ VI của Đảng; Báo cáo Chính trị của Tỉnh ủy Thanh Hóa khóa XI trình Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XII và nhiều văn bản quan trọng khác.

Về tình hình thực hiện nhiệm vụ chính trị trên địa bàn huyện trong nhiệm kỳ XIV, Đại hội đánh giá: Sau ba năm chia tách từ huyện Lương Ngọc, huyện Lang Chánh có nhiều việc phải làm lại từ đầu, khó khăn nhiều về cơ sở vật chất kỹ thuật, kinh tế - xã hội, chính trị, tư tưởng và về tổ chức bộ máy ở một huyện mới… Nhưng dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, Đảng bộ, nhân dân huyện Lang Chánh đã ra sức khắc phục khó khăn thách thức, từng bước ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh, hệ thống chính trị được xây dựng hoàn thiện từng bước. Tuy vậy, sự phát triển của huyện chưa tương xứng so với tiềm năng, lĩnh vực kinh tế còn nhiều hạn chế và ách tắc, đời sống cán bộ, nhân dân gặp nhiều khó khăn, nền kinh tế vẫn mang nặng tính chất tự cung, tự cấp. Nguyên nhân sâu xa dẫn đến tình trạng nói trên, trước hết là do tác động của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, tư tưởng trông chờ bao cấp còn nặng, trình độ tổ chức quản lý kinh tế - xã hội còn thấp kém.

Căn cứ vào tình hình của huyện và đường lối, quan điểm đổi mới của Đảng, Đại hội đã xác định phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu phấn đấu trên các lĩnh vực. Đại hội chỉ rõ: Cần phải phấn đấu nâng cao đời sống nhân dân, đặc biệt chú ý đến vùng sâu, vùng xa trên cơ sở thúc đẩy sản xuất phát triển, xây dựng thêm cơ sở vật chất kỹ thuật, tổ chức lại lao động, khai thác rừng và quản lý khai thác rừng chặt chẽ, xóa bỏ ý thức dựa vào tự nhiên, tự cấp, tự túc. Xây dựng ý thức sản xuất hàng hóa để xuất khẩu, góp phần cùng nhân dân trong tỉnh và cả nước thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Đại hội đề ra một số mục tiêu cụ thể đến năm 1990 như sau:

Tổng sản lượng lương thực đạt 17 ngàn tấn (màu quy thóc chiếm trên 5 ngàn tấn, bình quân đầu người đạt 300 kg lương thực); thịt lợn đạt 283 tấn; luồng khai thác 7,5 triệu cây, nứa 21 triệu cây, gỗ 23.000 m 3 , 215.000 xite củi. Trồng mới 10.650 ha cây luồng, 1.070 ha cây quế, 2.000 ha cây trẩu, 1.000 ha cây xoan, 400 ha cây lấy trầm.

Về xây dựng cơ bản: cần phải nâng cấp đường đi xã Yên Khương, làm thêm tuyến đường mới từ trung tâm huyện đi xã Lâm Phú dài 32 km, sửa chữa nâng cấp cầu cống và các tuyến đường đã có. Xây dựng mới 15 công trình thủy lợi - thủy điện nhỏ và sửa chữa, nâng cấp hệ thống hồ đập, mương máng hiện có. Xây dựng xong Trường Trung học phổ thông (cấp III cũ) và Bệnh viện huyện quy mô 100 giường bệnh (trong đó Bệnh viện Đa khoa huyện có 70 giường bệnh, còn lại 30 giường bệnh ở Phân viện vùng cao  xã Yên Thắng). Xây mới 10 trường phổ thông cơ sở, gồm 38 phòng học đủ bàn ghế bằng gỗ cho học sinh; xây dựng Trung tâm Dạy nghề tại huyện; giảm tỷ lệ sinh đẻ xuống 1,7%. Nhận 4.000 lao động miền xuôi, năm 1986 nhận 500 lao động.

Để hoàn thành các mục tiêu đề ra, Đại hội xác định các giải pháp thực hiện như sau: Hoàn thành việc hoạch định ranh giới quy vùng giữa quốc doanh và tập thể. Tiến hành giao đất, giao rừng, vườn rừng cho xã viên, có phương hướng sản xuất, có cơ cấu quy trình kỹ thuật cây trồng kết hợp nông - lâm. Có người làm chủ, quản lý cụ thể, cấm tư nhân, các cơ quan không được giao đất, giao rừng vào chặt phá khai thác trái phép. Có kế hoạch xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật các công trình thủy lợi giao thông, các cơ sở công nghiệp, tổ chức nguồn chế biến nông lâm thổ sản, trang bị và sản xuất các loại công cụ sản xuất phù hợp. Bố trí sắp xếp lại tổ chức sản xuất phân công lại lao động trên địa bàn huyện. Mở rộng mạng lưới thương nghiệp phục vụ kịp thời cho sản xuất đời sống và cung ứng vật tư cho sản xuất. Tăng cường thu mua quản lý hàng hóa cải tạo thị trường, chống buôn bán gian lận, tìm mọi biện pháp có hiệu nghiệm để tiền, các mặt hàng vào trong tay Nhà nước trên cơ sở phục vụ cho sản xuất phát triển để cải thiện đời sống nhân dân. Ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất, tạo năng suất cây trồng, vật nuôi, tăng năng suất lao động, nâng cao giá trị các mặt hàng xuất khẩu. Mở rộng diện tích trồng cây xuất khẩu bao gồm: lạc, đậu tương, thầu dầu, tỏi, ớt, quế, trẩu, cây trầm hương, các loại lá, hạt có tinh dầu tăng nhanh sản lượng hàng, mặt hàng xuất khẩu. Công tác chính trị, tư tưởng phải luôn giáo dục ý thức xây dựng tập thể, ý thức tiến hành đồng thời 3 cuộc cách mạng: quan hệ sản xuất; khoa học kỹ thuật và tư tưởng văn hóa, trong đó, cách mạng khoa học kỹ thuật là then chốt. Toàn bộ công tác văn hóa, giáo dục đào tạo, y tế, thể dục thể thao, thông tin tuyên truyền, đều phải hướng vào việc xây dựng con người mới, nền kinh tế mới, xã hội mới; động viên tuyên truyền quần chúng tiến công vào 3 cuộc cách mạng nêu trên. Xây dựng Đảng và hệ thống chính trị vững mạnh đáp ứng yêu cầu tổ chức lãnh đạo triển khai thực hiện công cuộc đổi mới. Xây dựng quốc phòng - an ninh vững chắc, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ huyện gồm 35 đồng chí (trong đó có 03 ủy viên dự khuyết); đồng chí Hoàng Thi tiếp tục được bầu làm Bí thư Huyện ủy, đồng chí Hà Đăng Thông làm Phó Bí thư, Chủ tịch UBND, đồng chí Phạm Đăng Nhượng làm Phó Bí thư trực (đến tháng 12 - 1988, đồng chí Hoàng Thi nghỉ hưu, Tỉnh ủy chỉ định đồng chí Hà Đăng Thông đảm nhiệm quyền Bí thư Huyện ủy).

Đại hội Đảng bộ huyện Lang Chánh lần thứ XV là Đại hội đầu tiên của thời kỳ thực hiện đường lối đổi mới của Đảng. Đại hội đã nhận thức và vận dụng được những quan điểm cơ bản của Trung ương, của Tỉnh ủy, xác định phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu giải pháp lãnh đạo, chỉ đạo triển khai công cuộc đổi mới của Đảng trên địa bàn huyện.

2. Quá trình chỉ đạo triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XV

Thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ VI của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XII và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XV, Huyện ủy chỉ đạo toàn dân nỗ lực phấn đấu hoàn thành ba chương trình kinh tế lớn của Đảng, nhằm từng bước đẩy lùi khó khăn thách thức, ổn định đời sống nhân dân.

Trong phát triển kinh tế

Về chương trình lương thực, thực phẩm: Huyện ủy đã đề ra nhiều giải pháp để khắc phục những khó khăn mới nảy sinh trong việc tổ chức chỉ đạo thực hiện Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng, tăng cường tiềm lực thúc đẩy sản xuất nông - lâm nghiệp phát triển.

Triển khai thực hiện Nghị quyết số 09 NQ/TU, ngày 06 - 8 - 1987, của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Thanh Hóa về giải quyết khẩn cấp về lương thực và đời sống; ngày 24 - 8 - 1987, Ban Thường vụ Huyện ủy Lang Chánh đã ban hành Chỉ thị về việc giải quyết khẩn cấp về lương thực và đời sống. Huyện ủy đã xác định nguồn lương thực chủ yếu của địa phương là: lúa và màu. Trong nông dân có thể tự cung tự cấp được nhu cầu, nhưng nhu cầu Nhà nước sắp tới thiếu nghiêm trọng. Trong nông thôn có khoảng 30% số dân bị thiếu ăn, đại bộ phận có thể tự túc được và còn bộ phận gia đình sản xuất giỏi có dự trữ lương thực của các vụ trước còn lại. Huyện ủy chủ trương mở một chiến dịch huy động lương thực đối với những hộ còn dư thừa lương thực bằng các biện pháp cho Nhà nước vay tính lãi suất 6%/tháng, đến vụ mùa trả lại. Vận động nhân dân nộp thêm thuế nông nghiệp, vụ chiêm còn lại sẽ trừ vào mức thuế ghi thu cả năm, đổi lấy hàng hóa tiêu dùng hoặc bán lấy tiền mặt, bán gửi tiết kiệm. Khuyến khích khai thác gỗ, luồng để giao các đơn vị kinh tế đi trao đổi, liên kết với các tỉnh ngoài để lấy lương thực, lấy vật tư hàng hóa hợp thị hiếu và đổi lương thực. Tăng cường quản lý lương thực tại chỗ, tạo điều kiện cho nông dân lưu thông lương thực dễ dàng, nghiêm trị việc buôn bán đầu cơ buôn lậu lương thực, nâng giá lương thực, tranh mua, tranh bán với Nhà nước, cấm nấu rượu bằng lương thực.

Huyện ủy đã chỉ đạo đưa bộ giống mới có năng suất cao thay thế toàn bộ giống cũ thoái hóa, năng suất thấp. Chỉ đạo tăng cường các biện pháp khoa học kỹ thuật vào sản xuất, mở rộng diện tích trồng cây màu (chủ yếu là cây sắn), đẩy mạnh công tác thủy lợi… Nhờ đó, đã đưa năng suất bình quân toàn huyện lên 23 tạ/ha, nâng tổng sản lượng lương thực quy thóc năm sau cao hơn năm trước. Năm 1986, toàn huyện đạt 8.840 tấn quy thóc, đến năm 1988 đạt 9.795,3 tấn quy thóc, nâng mức ăn bình quân đầu người từ 213 kg/năm lên 227kg/năm. Toàn huyện đã nâng diện tích trồng sắn lên 1.400 ha, diện tích trồng ngô tăng lên 100 ha (đạt năng suất 6 tạ/ha), diện tích trồng lạc tăng lên 100 ha (năng suất đạt 4 tạ/ha). Nét mới trong sản xuất lương thực là cây ngô, cây lạc được mở rộng diện tích và đem lại năng suất cao, đã góp phần thay đổi cơ cấu bữa ăn, giải quyết một phần khó khăn trong đời sống và đóng góp nghĩa vụ cho Nhà nước.

Tuy năng suất, sản lượng lương thực được tăng lên, nhưng so với mục tiêu Đại hội đề ra còn thấp. Nguyên nhân cơ bản là công tác thủy lợi đảm bảo tưới tiêu chưa chủ động, việc ứng dụng khoa học kỹ thuật vào thâm canh còn hạn chế, việc quản lý điều hành của các ban quản lý hợp tác xã còn nhiều khiếm khuyết, nhiều hợp tác xã còn khoán trắng cho xã viên.

Trong hai năm (1986 - 1987), cùng với đẩy mạnh sản xuất lương thực, Huyện ủy đã đề ra nhiều giải pháp thúc đẩy chăn nuôi cả về số lượng và chất lượng. Bước đầu hình thành hệ thống dịch vụ chăn nuôi trên địa bàn huyện như công tác thú y, trại lợn đực giống. Đã làm tốt công tác phòng chống dịch bệnh cho gia súc. Bảo vệ tốt đàn trâu, bò không bị dịch bệnh xảy ra như trước đây. Nhờ đó, tổng đàn gia cầm, gia súc đều tăng. Năm 1986 đàn trâu có 5.240 con, đến năm 1988 tăng lên 5.400 con, đàn bò có 3.342 con tăng lên 3.500 con, đàn dê có 758 con tăng lên gần 1.000 con, đàn lợn từ 7.025 con tăng lên 9.250 con. Việc nuôi cá được phát triển mở rộng ở nhiều địa phương trong huyện với tổng diện tích mặt nước 6,5 ha. Tuy vậy, trong chăn nuôi cũng tồn tại một số hạn chế, khó khăn. Công tác thú y phòng chữa bệnh cho gia cầm, gia súc chưa được quan tâm. Các hợp tác xã và gia đình xã viên nuôi thả tự nhiên, trâu, bò phá hoại hoa màu chưa giải quyết hài hòa, hợp lý giữa phát triển trồng trọt và chăn nuôi.

Về chương trình hàng tiêu dùng và xuất khẩu: Nghề rừng là nghề chính, là thế mạnh của huyện. Vì vậy, Huyện ủy đã chỉ đạo giao lại đất và rừng trước đây đã công hữu cho xã viên tổ chức nuôi trồng, khai thác, bảo vệ và chỉ nộp lại một phần cho hợp tác xã theo mức giao khoán. Nhờ đó, việc tàn phá rừng được ngăn chặn, toàn huyện đã trồng mới 400 ha rừng luồng (trong đó quốc doanh trồng 150 ha, hợp tác xã trồng 250 ha). Rừng gỗ được phục hồi. Toàn huyện chăm sóc, bảo vệ 450 ha rừng tự nhiên và 1.882 ha rừng trồng. Việc khai thác lâm sản được thực hiện theo kế hoạch nhằm hạn chế việc tàn phá rừng. Năm 1987, toàn huyện đã khai thác được 827 ngàn cây luồng; năm 1988, khai thác được 800 ngàn cây. Sản xuất lâm nghiệp đã tạo ra khối lượng hàng hóa cung cấp cho thị trường trong và ngoài tỉnh.

 Về thương mại và xuất khẩu: Năm 1987 là năm đầu tiên thực hiện cơ chế thị trường theo Nghị quyết 02 của Trung ương Đảng, Quyết định 217 của Hội đồng Bộ trưởng nhưng chính sách cụ thể của các bộ, ngành Trung ương chưa được triển khai cụ thể và chưa đồng bộ nên các đơn vị sản xuất kinh doanh lúng túng trong việc khai thác, thu mua hàng hóa… Tuy khó khăn nhưng Huyện ủy đã chỉ đạo ngành phân phối lưu thông cố gắng đáp ứng yêu cầu của sản xuất và đời sống. Các mặt hàng như muối, dầu, may mặc, sách vở học sinh đã đáp ứng yêu cầu tiêu dùng của đồng bào các dân tộc trong huyện, còn các mặt hàng khác như: lương thực, thực phẩm, hàng hóa phục vụ sinh hoạt, đi lại đều thiếu thốn. Năm 1988, chuyển sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, tình hình thu nộp ngân sách Nhà nước ở các đơn vị kinh tế giảm dần. Có đơn vị không đủ tiền nộp ngân sách. Nguyên nhân là chưa kịp thời chuyển sang cơ chế mới, vốn và vật tư không đủ, làm ăn thua lỗ kéo dài…

Bên cạnh mặt đạt được trong phát triển kinh tế, vẫn còn hạn chế: Huyện ủy chưa xác định rõ hướng đi trong phát triển các loại cây trồng, vật nuôi để tạo ra hàng hóa xuất khẩu. Lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp quy mô nhỏ, vốn và vật tư hạn chế nên không đủ sức đáp ứng yêu cầu về hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Các ngành kinh tế tổng hợp, ngân hàng, tài chính vận dụng cơ chế mới còn bị động, lúng túng, chưa đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh…

Về văn hóa - xã hội

Trong những năm chuyển đổi cơ chế, các ngành giáo dục, y tế, văn hóa vẫn tích cực hoạt động nhưng gặp không ít khó khăn.

Ngành y tế tích cực tăng cường cơ sở vật chất phục vụ khám chữa bệnh bảo vệ sức khỏe toàn dân. Ngành đã kịp thời phát hiện và đề ra biện pháp dập tắt các ổ dịch bệnh; đẩy mạnh cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch… Nhưng do thiếu thuốc chữa bệnh, cơ sở vật chất lạc hậu, nhiều trạm y tế hoạt động cầm chừng, hiện tượng tiêu cực xuất hiện.

Ngành giáo dục tuy có cố gắng trong phong trào thi đua “Dạy tốt, học tốt” xuất hiện nhiều thầy cô dạy giỏi và học sinh giỏi nhưng cơ sở vật chất về trường lớp xuống cấp nghiêm trọng. Việc huy động đóng góp xây dựng trường lớp gặp nhiều khó khăn, kinh phí đầu tư nhỏ giọt. Nhiều trường xuống cấp nghiêm trọng, bàn ghế hư hỏng, thiếu thốn. Từ khi chuyển cơ chế, số lượng học sinh bỏ học tăng lên, toàn huyện có tới 1.000 cháu từ 7 đến 15 tuổi không biết đọc, biết viết. Để khắc phục tình trạng trên, Huyện ủy đã chỉ đạo ngành Giáo dục và chính quyền các cấp thực thi nhiều giải pháp vận động đồng bào các dân tộc chung sức chăm lo cho “Sự nghiệp trồng người”.

Về văn hóa thông tin, tập trung vào tuyên truyền các chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước phục vụ kịp thời nhiệm vụ chính trị của cấp ủy Đảng chính quyền địa phương. Tuyên truyền vận động nhân dân xây dựng nếp sống mới, con người mới XHCN. Xóa bỏ các hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan… Lĩnh vực văn hóa thông tin hoạt động tốt, có chất lượng, như Hiệu sách nhân dân hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ kế hoạch được giao, tổng doanh thu đạt 328.913 đồng, với 18.5000 bản sách và 35.500 tờ văn hóa phẩm. Các hình thức thông tin cổ động, văn hóa văn nghệ đã có nhiều cố gắng vươn lên rõ nét. Tuy vậy, các ngành Văn hóa - Thông tin, Truyền thanh, nhiếp ảnh, chiếu phim cũng gặp nhiều khó khăn vì chuyển đổi cơ chế không còn nguồn tài trợ do các hợp tác xã nông nghiệp cũng gặp khó khăn. Đặc biệt là vùng cao, vùng xa các hoạt động văn hóa, văn nghệ còn hết sức hạn chế. Công tác vận động xây dựng nếp sống mới, con người mới XHCN chưa được tuyên truyền giáo dục thường xuyên liên tục. Ý thức xã hội, ý thức làm chủ tập thể không được phát huy cao độ, xuất hiện nhiều biểu hiện tiêu cực, nhiều sai trái không được kịp thời đấu tranh phê phán. Các hủ tục mê tín dị đoan chưa được xóa bỏ triệt, có nơi còn tái diễn trở lại.

Về công tác thương binh - xã hội: Được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, huyện đã tổ chức thực hiện và giải quyết tốt các chế độ chính sách đối với thương binh, gia đình liệt sỹ, người có công với cách mạng, cán bộ về nghỉ hưu mất sức, các gia đình neo đơn gặp nhiều khó khăn…

Về quốc phòng - an ninh

 Công tác quốc phòng được đẩy mạnh từng bước. Nhiệm vụ tuyển quân đảm bảo chất lượng và số lượng. Đồng thời, đã tiến hành điều tra cơ bản lực lượng dự bị động viên, xây dựng dân quân tự vệ. Các lực lượng vũ trang được tổ chức diễn tập và báo động sẵn sàng chiếu đấu đạt chất lượng tốt. Tuy vậy, công tác phối hợp giữa các lực lượng còn thiếu chặt chẽ, công tác huấn luyện quân sự không được thường xuyên, một số cơ sở dân quân hoạt động quá yếu.

An ninh chính trị, trật tự an toàn trong thôn xóm, cơ quan, trên tuyến biên giới được tăng cường. Các đối tượng chính trị, các phần tử gây rối được quản lý chặt chẽ bằng các biện pháp. Công an và các cơ quan nội chính đã khám phá 23 vụ án kinh tế thu hồi hàng triệu đồng cho Nhà nước và nhân dân. Để giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, lực lượng công an phải mài sắc bản lĩnh cách mạng, nâng cao trình độ nghiệp vụ; các cấp ủy Đảng, chính quyền thường xuyên giáo dục quần chúng hiểu và làm theo pháp luật, nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, giúp đỡ lực lượng vũ trang bảo vệ sự bình yên hạnh phúc của quê hương Giữ vững được phòng tuyến biên giới và tiếp tục xây dựng mối quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa các dân tộc trên tuyến biên giới Việt Nam - Lào.

Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị

Trong nhiệm kỳ đã tập trung vào đổi mới tư duy, đặc biệt là tư duy kinh tế, đổi mới tổ chức cán bộ, đổi mới phong cách lãnh đạo, phương pháp công tác và đã đạt được kết quả bước đầu.

Công tác tư tưởng từng bước tạo niềm tin cho cán bộ, đảng viên và nhân dân vào sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, nâng cao tinh thần khắc phục khó khăn, chủ động, sáng tạo trong việc vận dụng các quan điểm đổi mới của Đảng vào phát triển kinh tế, xã hội.

Trong công tác tổ chức bộ máy và cán bộ, Huyện ủy đã chỉ đạo từng bước sắp xếp lại bộ máy, bố trí lại cán bộ phù hợp với điều kiện năng lực cụ thể. Quan tâm công tác kiểm tra và kỷ luật Đảng, nhất là việc đấu tranh chống tiêu cực trong bộ máy lãnh đạo, quản lý các cấp, xử lý kỷ luật những đảng viên không có đủ năng lực, phẩm chất. Năm 1987, khai trừ 12 đảng viên thoái hóa, biến chất, kỷ luật cảnh cáo 4 đồng chí, cách chức 1 đồng chí; đã triển khai kiểm tra Đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng ở xã Quang Hiến và Hạt Kiểm lâm, tiến hành kiểm tra 9 cán bộ đảng viên (trong đó huyện quản lý 4 đồng chí). Năm 1988, khai trừ 10 đảng viên thoái hóa, biến chất; kỷ luật bằng các hình thức khác 3 đồng chí. Kết nạp 60 quần chúng ưu tú vào Đảng, chuyển Đảng chính thức cho 101 đồng chí. Tuy nhiên, công tác phát triển đảng chưa đồng đều ở các đơn vị cơ sở. Qua phân loại, đảng viên xuất sắc đạt 387 đồng chí, đảng viên khá là 613 đồng chí, đảng viên yếu kém là 120 đồng chí.

Công tác xây dựng Đảng đã từng bước nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng bộ, đã tăng cường cho chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể quần chúng những cán bộ, đảng viên tốt… Tuy vậy, năng lực tổ chức quản lý kinh tế - xã hội, trình độ văn hóa, khoa học - kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ, đảng viên vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của công cuộc đổi mới.

Hệ thống chính quyền các cấp đã cố gắng quản lý điều hành phát triển kinh tế văn hóa, quốc phòng - an ninh, dựa trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật. Tuy nhiên, trình độ tổ chức quản lý điều hành còn bộc lộ những khiếm khuyết. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức quần chúng đã tích cực đổi mới tư duy và phương hướng hoạt động, tích cực tuyên truyền và vận động đồng bào các dân tộc thực hiện đường lối đổi mới của Đảng. Tuy vậy, một bộ phận cán bộ còn yếu kém về năng lực, thiếu kinh nghiệm tổ chức, vận động quần chúng…

Hai năm đầu triển khai sự nghiệp đổi mới, Đảng bộ và nhân dân huyện Lang Chánh đã tạo được những chuyển biến mới trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, văn hóa, quốc phòng - an ninh, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Tuy vậy, sự nghiệp đổi mới trên địa bàn phát triển chưa đều, chưa sâu rộng, nền kinh tế vẫn mang nặng hình thức tự cấp, tự túc, nghèo nàn và lạc hậu, ba chương trình kinh tế lớn kết quả còn thấp… Điều đó đòi hỏi Đảng bộ, nhân dân Lang Chánh tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới.

https://langchanh.thanhhoa.gov.vn/portal/Photos/2024-11-06/56b81c7fd5ba589dANH%20LICH%20SU%20DANG%20BO%201.jfif

II. TIẾP TỤC ĐẨY MẠNH CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI, ỔN ĐỊNH VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI (1988 - 1991)

1. Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ XVI

Nhằm khai thác tiềm năng đất đai, lực lượng lao động, phát huy các nguồn lực về sự lãnh đạo của Đảng bộ, quản lý, điều hành của hệ thống chính quyền, tổ chức vận động, đoàn kết nhân dân của các tổ chức chính trị… đề ra phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu, giải pháp thích hợp đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới trong những năm 1989 - 1991, Đảng bộ huyện Lang Chánh tổ chức Đại hội lần thứ XVI (từ ngày 26 đến 28 - 12 - 1988), dự Đại hội có 119/121 đại biểu chính thức đại diện cho các đảng bộ, chi bộ trong toàn huyện.

Đại hội đã nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá các mặt thành công, hạn chế trong một nhiệm kỳ trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, quốc phòng - an ninh, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Đại hội đã căn cứ vào thực tiễn ở địa phương, vận dụng sáng tạo các quan điểm đổi mới của Đảng, đề ra phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu, giải pháp phát triển toàn diện trên các lĩnh vực giai đoạn 1988 - 1991.

Về phát triển kinh tế, tập trung phát triển lương thực, phấn đấu ở mức cao nhất, tận dụng mọi năng lực đất đai đưa tổng sản lượng lương thực quy thóc lên 10.500 tấn (năm 1991). Phát huy thế mạnh của huyện là lâm sản, nông sản (trâu, bò, luồng, gỗ) để trao đổi lấy lương thực đảm bảo cân đối được lương thực tại chỗ, nâng mức lương thực bình quân đầu người lên 300 kg/người (năm 1991). Về lâm nghiệp, Đại hội đã xác định đây là ngành mũi nhọn, là thế mạnh của huyện. Những năm tới phấn đấu: nhanh chóng khôi phục và phát triển, rừng luồng với diện tích là 8.000 ha; gỗ trồng mới là 500 ha/năm; khoanh nuôi được 4.419 ha/năm; về khai thác: hàng năm tổ chức khai thác được 1 triệu cây luồng. Trong đó tập thể: 800.000 cây; quốc doanh: 200.000 cây. Về chăn nuôi, phát triển mạnh chăn nuôi, nhất là chăn nuôi đại gia súc (trâu, bò). Phấn đấu đến năm 1991 đưa tổng đàn trâu bò lên 11.600 con; trong đó, đàn trâu là 6.200 con, đàn bò là 5.400 con. Về xuất khẩu, phấn đấu có từ 20 đến 25 ngàn rúp - đô la năm 1991. Hướng tập trung trồng và làm các mặt hàng phục vụ xuất khẩu như: thầu dầu, hương nhu, lạc, làm tăm mành. Về xây dựng cơ bản: giảm việc xây dựng các công trình dân dụng, xây dựng xong các công trình dở dang, tập trung vốn và vật tư cho việc xây dựng các công trình phúc lợi (phục vụ sản xuất và đời sống). Đối với cấp huyện, hàng năm phấn đấu làm thêm từ 3 - 5 km đường giao thông.

Đối với lĩnh vực thương mại, nắm nguồn hàng bán buôn, bán lẻ phục vụ đến vùng sâu, vùng xa. Lĩnh vực tài chính đi vào ổn định nguồn thu ngân sách, quản lý chặt chẽ kết quả sản xuất, kinh doanh của các đơn vị. Chi tiêu tiết kiệm, hiệu quả. Lĩnh vực ngân hàng, tiếp tục đẩy mạnh huy động vốn, thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ phục vụ sản xuất, đời sống.

Để thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế, Đại hội đã nhấn mạnh: Phải thực sự thay đổi tập quán canh tác, xóa bỏ tư tưởng sản xuất độc canh, tự túc tự cấp chuyển sang sản xuất hàng hóa. Đối với các đơn vị kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể phải nhanh chóng khắc phục tình trạng bao cấp, ỷ lại cấp trên, chuyển sang sản xuất kinh doanh có lãi. Mạnh dạn ứng dụng các tiến bộ khoa học vào sản xuất.

Về phát triển văn hóa - xã hội, Đại hội chỉ rõ: Các cấp ủy, chính quyền địa phương cần phải hết sức chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần cho cán bộ, viên chức và nhân dân các dân tộc trong huyện. Tiếp tục nâng cao chất lượng các hoạt động văn hóa, giáo dục, y tế, thể dục thể thao… Phấn đấu giảm tỷ lệ phát triển dân số xuống 2,5% năm 1991. Ngành giáo dục cần có kế hoạch giải quyết ngay số người mù chữ (nhất là lứa tuổi thanh thiếu niên). Ngành y tế cần chỉ đạo và làm tốt hơn nữa việc phòng chống dịch bệnh cho nhân dân. Đồng thời, thực hiện tốt các chính sách bảo hiểm xã hội do Nhà nước đã ban hành.

Về quốc phòng - an ninh: Củng cố vững chắc lực lượng dân quân tự vệ, quản lý chặt chẽ quân dự bị, xây dựng quỹ quốc phòng. Thường xuyên xây dựng tuyến an ninh biên giới, giữa vững ổn định chính trị, trật tự xã hội trong từng thôn, xóm, cơ quan.

Đại hội đã đề ra phương hướng xây dựng Đảng, chính quyền, các tổ chức chính trị đáp ứng yêu cầu đổi mới. Phát huy cao độ quyền làm chủ tập thể, xây dựng và củng cố các cấp chính quyền và các tổ chức đoàn thể quần chúng vững mạnh nhằm thực hiện tốt các mục tiêu kinh tế - xã hội do Đại hội đề ra. Tích cực xây dựng các tổ chức cơ sở đảng vững mạnh cả ba mặt (chính trị, tư tưởng và tổ chức) phấn đấu đạt 20 - 30% đảng bộ, chi bộ vững mạnh, số còn lại xếp loại khá, không còn đảng bộ, chi bộ yếu kém. Trong những năm tới, cần sắp xếp lại lực lượng cán bộ hiện có, có kế hoạch bố trí cho đi đào tạo, bồi dưỡng cả về lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ, chú trọng hơn nữa công tác đào tạo cán bộ nữ. Không ngừng nâng cao chất lượng đảng viên, nâng cao sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng. Trong sinh hoạt nội bộ, phải thực sự dân chủ và công khai. Tăng cường công tác giáo dục, kiểm tra, hết sức coi trọng công tác phát triển đảng viên mới.

Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa XVI gồm 31 đồng chí; đồng chí Phạm Văn Cảnh được bầu làm Bí thư Huyện ủy; đồng chí Hà Đăng Thông được bầu làm Phó Bí thư, Chủ tịch UBND huyện; đồng chí Phạm Đăng Nhượng làm Phó Bí thư Thường trực.

Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XVI đã nhận thức sâu sắc hơn đường lối và các quan điểm đổi mới của Đảng, vì vậy, đã xác định phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu, giải pháp tiến hành sự nghiệp đổi mới trên địa bàn huyện được cụ thể, phù hợp và sâu sắc hơn. Đó chính là một trong những nhân tố cơ bản, để sự nghiệp đổi mới ở Lang Chánh phát triển đúng hướng, tạo ra những chuyển biến mới trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.

2. Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XVI

Quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XVI có những thuận lợi cơ bản. Đó là cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp được xóa bỏ từng bước hình thành cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo ra động lực mới, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Trong quá trình tiến hành sự nghiệp đổi mới, Đảng bộ, nhân dân Lang Chánh được Tỉnh ủy quan tâm chỉ đạo, những khó khăn, thách thức vướng mắc được tháo gỡ mở đường cho sự nghiệp đổi mới tiến lên. Từ ngày tách huyện, truyền thống đoàn kết, thống nhất trong Đảng bộ và đồng bào các dân tộc huyện nhà được nâng cao, đó chính là sức mạnh đi đến những thành công to lớn và vẻ vang. Là một huyện vùng cao, nhưng giàu tiềm năng tài nguyên, đất đai và lao động... Bên cạnh các yếu tố thuận lợi, Lang Chánh cũng có những khó khăn cơ bản. Đó là tính chất tự cấp, tự túc nặng nề, trình độ dân trí còn thấp, trình độ phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội theo phương hướng đổi mới của nhân dân chưa cao, điểm xuất phát của nền kinh tế thấp và nghèo nàn, lạc hậu, cộng thêm nạn hạn hán, mưa lũ, sâu bệnh phá hoại. Các bệnh xã hội như bệnh sốt rét phát triển trên diện rộng… Những khó khăn, hạn chế nói trên đòi hỏi Đảng bộ, nhân dân huyện nhà phải kiên trì phấn đấu khắc phục.

Vượt lên khó khăn thử thách, Huyện ủy đã đề ra nhiều chủ trương, giải pháp sắc bén tổ chức lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân tiến hành các phong trào thi đua phấn đấu thực hiện thắng lợi các mục tiêu Đại hội Đảng bộ đề ra.

Trong lĩnh vực phát triển kinh tế

Tiếp tục thực hiện ba chương trình kinh tế lớn do Đại hội VI của Đảng đề ra, Huyện ủy chỉ đạo đổi mới các mặt hoạt động trong lĩnh vực kinh tế - xã hội. Năm 1989, Huyện ủy ban hành Nghị quyết số 02 về đổi mới cơ chế quản lý trong các hợp tác xã nông nghiệp, chỉ đạo giao đất, giao rừng, bán nhượng trâu, bò và rừng luồng cho người lao động theo tinh thần Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (tháng 4 - 1988) về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp (còn gọi là khoán 10) và Chỉ thị 15 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy. Huyện ủy đã tập huấn cho cán bộ quản lý của hệ thống hợp tác xã nông nghiệp trong huyện nắm vững các nguyên tắc phân chia quỹ đất và khoán thầu, đồng thời chỉ đạo sắp xếp lại bộ máy quản lý các hợp tác xã phù hợp với cơ chế mới, giảm lao động gián tiếp, tăng thêm lực lượng lao động trực tiếp, đầu tư đổi mới cơ cấu giống cây trồng, vật nuôi, đẩy mạnh công tác thủy lợi, ứng dụng các biện pháp khoa học - kỹ thuật vào sản xuất. Nhờ đó, tổng sản lượng lượng thực quy thóc trên địa bàn bình quân mỗi năm đạt 10.000 tấn Bình quân lương thực đầu người năm 1989 đạt 237 kg và tăng lên 275 kg năm 1993. Diện tích cây màu được phục hồi và mở rộng; diện tích gieo trồng các loại cây công nghiệp: chè, mía, lạc, đậu từ 4.363 ha tăng lên 4.640 ha. Năm 1990, sản xuất nông nghiệp phát triển tương đối khá, sản lượng lương thực quy thóc đạt 9.386 tấn; chăn nuôi được nhân dân chú trọng đến giống và chất lượng nên tăng trưởng hàng năm: đàn trâu tăng bình quân 7%; đàn bò tăng 4,5%; đàn lợn tăng 5,6%; đàn dê tăng 0,7%; gia cầm tăng 5,3%. Tuy vậy, chăn nuôi chỉ đạt 92% mục tiêu Đại hội. Diện tích trồng rừng, luồng trên 150 ha, khai thác luồng đạt 610 ngàn cây đạt 110% kế hoạch; gỗ khai thác trên 2 ngàn m 3 . Tổ chức cho các xã vùng thấp giao đất giao rừng để sản xuất kinh doanh. Công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp đã phát triển theo hướng tự phát, tập trung lực lượng kinh tế ngoài quốc doanh là chính nên giá trị tổng sản phẩm của ngành đạt 123 triệu đồng đạt 95% kế hoạch.

Lâm nghiệp có bước phát triển mới, phần lớn hộ nông dân nhận đất, nhận rừng tổ chức sản xuất kinh doanh, nhiều nhân tố mới xuất hiện. Rừng luồng được khôi phục lại, nhiều vùng đất trống, đồi trọc bỏ hoang đã được trồng rừng và có chủ quản lý. Toàn huyện trong 3 năm trồng được 2.300 ha rừng, trong đó có 930 ha luồng. Tuy vậy, tốc độ trồng rừng phủ xanh đất trống, đồi núi trọc còn chậm (mỗi năm chỉ đạt 80% kế hoạch). Công tác quản lý, bảo vệ rừng có thời gian, có địa phương còn buông lỏng. Tình trạng phát rừng làm nương rẫy ngoài quy hoạch vẫn còn tiếp diễn; kế hoạch tổ chức phát triển, khai thác còn nhiều khâu bất hợp lý.

Sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu đã có những tiến bộ mới. Việc chế biến lương thực, thực phẩm, dược liệu, sản xuất vôi, gạch, ngói, công cụ cầm tay đã tạo ra khối lượng hàng hóa tiêu dùng và xuất khẩu khá lớn. Nhiều hộ gia đình, do sản xuất kinh doanh đã tích lũy được vốn mua sắm ô tô, xe máy, ti vi, cát sét phục vụ sản xuất và đời sống. Trên thị trường hàng hóa ngày càng phong phú, đa dạng, lưu thông phân phối thuận lợi… Hằng năm, sản xuất tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn đạt giá trị từ 200 - 250 triệu đồng, nhưng đó chỉ là kết quả bước đầu, giá trị không lớn so với tiềm năng trong huyện và phát triển chưa vững chắc.

Để thực hiện thắng lợi ba chương trình kinh tế lớn của Đảng trên địa bàn huyện Lang Chánh, bằng nguồn vốn đầu tư của Nhà nước và sự đóng góp của nhân dân, Huyện ủy đã chỉ đạo xây dựng các công trình giao thông, thủy lợi, đầu tư cho khai hoang mở rộng diện tích canh tác. Đó là đập thủy lợi làng Oi (Quang Hiến), đập Ngàn (Yên Thắng), đập Chiềng Ngày, đập Làng Poong (Lâm Phú) và một số hồ đập khác. Đảng bộ, chính quyền, nhân dân các xã đã tập trung công sức và kinh phí tu sửa nâng cấp và làm mới các tuyến đường giao thông nông thôn. Tuyến đường huyện lỵ cũng được nâng cấp và rải nhựa. Huyện ủy đã chỉ đạo Ủy ban nhân dân huyện xây dựng các dự án phát triển kinh tế - xã hội trình Nhà nước nghiên cứu phê duyệt. Huyện ủy chỉ đạo điều chỉnh quy mô hợp tác xã phù hợp với yêu cầu mới (từ 83 hợp tác xã đã điều chỉnh lên 88 hợp tác xã).

Tuy đạt được những thành quả mới nhưng kinh tế - xã hội tốc độ phát triển chậm. Nhiều ngành sản xuất, kinh doanh, khi chuyển sang cơ chế mới lúng túng, bế tắc. Nhiều đơn vị kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể không kịp thời thích ứng với cơ chế thị trường làm ăn thua lỗ, người lao động không có việc làm, nợ ngân hàng không có khả năng thanh toán, dẫn đến nguy cơ tan rã. Các thành phần kinh tế khác phát triển nhanh và đảm nhận chức năng điều tiết cung cầu xã hội. Trên địa bàn huyện đã xuất hiện nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh tư nhân như: các cụm xay xát, nghiền thức ăn gia súc, các cửa hàng, cửa hiệu, hàng hóa phong phú đa dạng… Nhưng nhìn chung quy mô sản xuất kinh doanh của khu vực tư nhân còn nhỏ yếu và mới tập trung ở khu vực thị trấn, thị tứ…

Lĩnh vực văn hóa - xã hội      

Tuy vẫn tiếp tục gặp khó khăn do chuyển đổi cơ chế nhưng bằng sự phấn đấu của Đảng bộ, nhân dân toàn huyện mà lực lượng nòng cốt là đội ngũ cán bộ chuyên môn nên mọi hoạt động dần dần đi vào nền nếp, đúng hướng.

Hệ thống giáo dục - đào tạo đã tập trung vào nhiệm vụ xóa mù chữ cho các cháu trong độ tuổi quy định, vận động học sinh không bỏ học, tập trung nâng cấp hệ thống trường lớp, nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập. Các cháu trong độ tuổi mầm non, hệ cấp I được vận động đưa đến trường lớp. Tính đến năm 1999, toàn huyện đã có 10.000 học sinh các cấp.

Về y tế, hệ thống bệnh viện, trạm xá tập trung vào nhiệm vụ chăm lo sức khỏe cho toàn xã hội, thực hiện tốt tiêm chủng 5 loại vác xin phòng dịch cho trẻ em trên địa bàn huyện. Công tác phòng chống dịch sốt rét được tiến hành sâu rộng, liên tục. Nhờ đó tử vong do bệnh sốt rét gây ra giảm thấp, các ổ dịch từng bước được bao vây tiêu diệt. Công tác kế hoạch hóa gia đình được tiến hành bằng nhiều biện pháp sinh động, nhận thức của đồng bào các dân tộc được nâng lên, tỷ lệ tăng dân số từ 2,89% (năm 1989) giảm xuống còn 2,62% vào năm 1991. Nhìn chung, các cấp ủy Đảng, chính quyền đã quan tâm đầu tư chỉ đạo phát triển hệ thống y tế trên tất cả các phương diện (xây dựng, củng cố mạng lưới y tế, đội ngũ thầy thuốc, trang thiết bị và thuốc chữa bệnh).

Hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục - thể thao từng bước đổi mới phương thức và nội dung. Hệ thống quan điểm chỉ đạo của Đảng từng bước được tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân, văn hóa truyền thống của các dân tộc được khai thác phục vụ công chúng. Trình độ và điều kiện hưởng thụ văn hóa nghệ thuật của nhân dân lao động từng bước được nâng lên kể cả vùng sâu, vùng xa.

Việc thực hiện các chính sách xã hội đối với gia đình thương binh, liệt sĩ và vùng sâu, vùng xa được các cấp ủy Đảng, chính quyền, nhân dân thực hiện nghiêm túc, quan tâm đầy đủ. Các tổ chức chính trị đã vận động nhân dân đóng góp công sức, tiền của xây dựng nhiều ngôi nhà tình nghĩa giá trị hàng chục triệu đồng để tặng các gia đình chính sách khó khăn. Huyện và các xã tiến hành xây dựng mới và nâng cấp hệ thống nghĩa trang liệt sĩ thể hiện sự ghi nhớ công ơn của Đảng bộ và nhân dân đối với những người đã dũng cảm hy sinh vì độc lập tự do của dân tộc…

Tuy đạt được thành quả mới nhưng các mặt hoạt động văn hóa - xã hội vẫn còn tồn tại và hạn chế. Tốc độ gia tăng dân số trên địa bàn huyện quá nhanh (năm 1988 mới có 3,58 vạn người, đến năm 1990 đã tăng lên 3,85 vạn người). Năm 1990, toàn huyện có hơn 1.000 lao động thiếu việc làm, trong đó có những người gây nên hiện tượng tiêu cực trong xã hội. Vấn đề xóa bỏ hệ thống trường lớp tranh tre nứa lá tạm bợ, thực hiện ngói hóa trường học, bệnh xá đặt ra yêu cầu lớn về ngân sách đầu tư…

Lĩnh vực quốc phòng - an ninh

Huyện ủy đã tích cực chỉ đạo thực hiện Nghị quyết 02 của Bộ Chính trị về xây dựng hệ thống phòng thủ, gắn quốc phòng và an ninh với xây dựng làng xã sẵn sàng chiến đấu. Nhờ đó, nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân được củng cố vững chắc. Lực lượng vũ trang đã xây dựng được phương án chiến đấu khi có tình huống diễn ra; tổ chức diễn tập quân sự (TH90) đạt kết quả tốt. Các đơn vị dân quân tổ chức tập luyện và bắn đạn thật theo kế hoạch của tỉnh. Công tác bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội gắn chặt với việc thực hiện Chỉ thị 135 của Hội đồng Bộ trưởng và Nghị quyết 19 của Tỉnh ủy. Phát hiện và xử lý kịp thời những vụ việc xảy ra trong địa phương, giữ vững an ninh biên giới. Đã xử lý theo pháp luật 17 vụ vi phạm trật tự an ninh . Đồng thời, mở đợt cao điểm truy bắt tội phạm hình sự giải quyết kịp thời các vụ việc xảy ra. Tuy vậy, trật tự an toàn xã hội vẫn còn diễn biến phức tạp. Những vụ vi phạm pháp luật như: bắt cóc trẻ em, buôn bán phụ nữ, mê tín dị đoan, khai thác lâm sản trái phép vẫn diễn ra, nhưng tổ chức ngăn chặn chưa kịp thời và triệt để. Phong trào xây dựng làng xã an toàn, làm chủ, phong trào bảo vệ an ninh phát triển chưa đều và nhiều mặt còn hạn chế. Trình độ nghiệp vụ của lực lượng công an chưa đáp ứng được tình hình mới. Các cơ quan nội chính xử lý các vụ vi phạm chưa cương quyết, nghiêm minh, vì vậy niềm tin của nhân dân có phần giảm sút.

Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị

Huyện ủy tập trung chỉ đạo kết hợp chặt chẽ các mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức trong công tác xây dựng Đảng bộ và hệ thống chính trị. Nhờ đó, năng lực và phẩm chất của hệ thống chính trị được củng cố, nâng cao, từng bước đáp ứng yêu cầu tổ chức lãnh đạo công cuộc đổi mới trên địa bàn.

Công tác chính trị tư tưởng đã làm rõ nguyên nhân diễn biến phức tạp của tình hình chính trị thế giới, xây dựng niềm tin và quyết tâm tiến hành sự nghiệp đổi mới cho toàn Đảng, toàn dân. Các chỉ thị, nghị quyết và quan điểm đổi mới của Đảng được triển khai sâu rộng, tạo ra sự ổn định về tư tưởng, chính trị và đồng thuận trong toàn xã hội. Năm 1990, Huyện ủy ban hành Quyết định thành lập Trung tâm giáo dục chính trị, tạo điều kiện cho mạng lưới báo cáo viên hoạt động và có hiệu quả.

Công tác tổ chức tập trung vào sắp xếp điều chỉnh bộ máy, cân nhắc đề bạt cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý theo yêu cầu mới. Huyện ủy đã cử đi học chính trị, chuyên môn nghiệp vụ các trường trong tỉnh và Trung ương 32 đồng chí. Mở 02 lớp bồi dưỡng chương trình lý luận sơ cấp cho đảng viên mới và mở 2 lớp đối tượng Đảng với 70 đoàn viên ưu tú, giúp đỡ kết nạp được 52 đảng viên mới. Năm 1989, 02 đồng chí được cử đi học cao cấp lý luận; 12 đồng chí đi học trung cấp lý luận chính trị là cán bộ kế cận cho xã. Năm 1990 đã kết nạp được 23 đảng viên mới so với năm 1989 đạt 50% (trong đó có 5 đồng chí nữ, khối nông thôn là 19 đồng chí, khối cơ quan là 4 đồng chí).

Công tác chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết 05 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Nghị quyết 04 của Bộ Chính trị, Nghị quyết 29 của Tỉnh ủy được triển khai nghiêm túc và đạt kết quả tốt. Qua phân loại Đảng bộ huyện có 640 đảng viên đạt loại I, 370 đảng viên đạt loại II, 39 đảng viên đạt III. Tỷ lệ đảng bộ, chi bộ trong sạch, vững mạnh và chi bộ khá tăng lên. Tỷ lệ chi bộ đạt trung bình và yếu kém giảm thấp. Công tác kiểm tra xây dựng Đảng tiếp tục được đẩy mạnh. Những cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất, vi phạm Điều lệ Đảng được xử lý nghiêm túc và kịp thời. Nhờ đó, sức chiến đấu của Đảng bộ được tăng cường, vai trò lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chính trị được nâng cao.

Huyện ủy đã chỉ đạo sắp xếp lại bộ máy chính quyền theo hướng tinh gọn, giảm biên chế. Đội ngũ cán bộ chính quyền liên tục được cử đi học quản lý hành chính, quản lý Nhà nước. Việc bầu cử vào chính quyền các cấp công khai, dân chủ đảm bảo đúng luật. Chỉ đạo xây dựng 2 tiểu khu phố thuộc thị trấn huyện, chỉ đạo bầu cử hệ thống trưởng thôn, trưởng bản. Cán bộ, đảng viên có năng lực quản lý được tăng cường cho bộ máy Nhà nước các cấp, nhờ đó đã thực hiện chức năng quản lý Nhà nước ngày càng đáp ứng với yêu cầu mới.

Thực hiện Nghị quyết 8B-NQ/TW của Trung ương Đảng về đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường quan hệ giữa Đảng và nhân dân, Huyện ủy đã chỉ đạo kiện toàn hệ thống tổ chức từ huyện đến cơ sở. Các tổ chức chính trị - xã hội từng bước đổi mới phương thức và nội dung hoạt động tập hợp đông đảo quần chúng vào tổ chức, tích cực tuyên truyền vận động các tầng lớp nhân dân tiến hành sự nghiệp đổi mới, đồng thời tích cực tham gia đóng góp ý kiến xây dựng hoàn chỉnh văn kiện Đại hội Đảng các cấp. Vì vậy, chất lượng hoạt động của các đoàn thể có nhiều chuyển biến: Đoàn Thanh niên tổ chức xây dựng chi đoàn mạnh, tổ chức Đại hội cháu ngoan Bác Hồ; Công đoàn phát động công nhân viên thực hiện 4 chương trình giỏi; Hội phụ nữ giúp đỡ chị em khó khăn xây dựng kinh tế gia đình, nuôi con khỏe dạy con ngoan, phòng chống tình trạng suy dinh dưỡng và bỏ học cho trẻ em; Hội nông dân đã phát động hội viên xây dựng các gia đình sản xuất giỏi, Mặt trận Tổ quốc xã xây dựng hội làm vườn… Năm 1990, Hội Cựu chiến binh huyện được thành lập, bước đầu ổn định tổ chức và đi vào hoạt động. Tuy nhiên, trong công tác quần chúng, phong trào Đoàn Thanh niên chưa mạnh, còn trầm lặng ở một số cơ sở. Nguyên nhân là do một số cấp ủy đảng cơ sở chưa quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi cho khối này hoạt động. Mặt khác, cán bộ phụ trách các đoàn thể năng lực còn hạn chế, thiếu kinh nghiệm, thiếu nhiệt tình vận động quần chúng.

Tuy đạt được những thành tích cơ bản trong công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, nhưng so với yêu cầu tổ chức lãnh đạo sự nghiệp đổi mới còn bộc lộ những hạn chế, khuyết điểm: phong cách lãnh đạo và phương pháp công tác của cấp ủy các cấp chậm đổi mới, tổ chức quản lý kinh tế - xã hội của các cấp chính quyền chưa năng động, sáng tạo, hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội chưa sâu sắc, toàn diện, tư tưởng trông chờ bao cấp còn nặng…

Năm năm đầu tiên triển khai thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng bộ, nhân dân huyện Lang Chánh đã quyết tâm, nỗ lực đạt được những kết quả quan trọng trên tất cả lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng - an ninh. Thành quả đó đã góp phần từng bước đẩy lùi khủng hoảng kinh tế, ổn định đời sống nhân dân, giữ vững ổn định chính trị, củng cố niềm tin đối với sự lãnh đạo của Đảng.

https://langchanh.thanhhoa.gov.vn/portal/Photos/2024-11-06/798953ecd01544dd635949397.jpg

III. ĐẨY MẠNH CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI TOÀN DIỆN (1991 - 1995)

1. Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ XVII

Sau 5 năm tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện (1986 - 1990), đất nước ta giành được thành tựu cơ bản và quan trọng. Tuy vậy, nền kinh tế tăng trưởng còn chậm, nhiều mặt chưa ổn định và chưa thoát khỏi tình trạng khủng hoảng. Năm 1991, sự tan rã của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô đã tác động tiêu cực đến các nước xã hội chủ nghĩa trong đó có Việt Nam. Các thế lực thù địch tăng cường bao vây cấm vận phá hoại cách mạng nước ta, nhằm thực hiện mưu đồ xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng ta, xóa bỏ chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta. Trong khi đó, quan hệ kinh tế đối ngoại của ta với các thị trường truyền thống bị ngưng trệ, khủng hoảng kinh tế vẫn tiếp tục tiếp diễn, các phần tử chống đối đòi đa nguyên, đa đảng… Dân tộc Việt Nam đứng trước những thử thách to lớn của thời đại.

Trước tình hình đó, tháng 6 năm 1991, Đại hội VII Đảng Cộng sản Việt Nam được tiến hành. Đại hội Đảng lần thứ VII xác định các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000. Đại hội của Đảng chỉ rõ: mục tiêu tổng quát là ra khỏi khủng hoảng, ổn định tình hình kinh tế - xã hội, phấn đấu vượt qua nước nghèo và kém phát triển, cải thiện đời sống nhân dân, củng cố quốc phòng - an ninh, tạo điều kiện cho đất nước phát triển nhanh hơn vào thế kỷ XXI. Tổng sản phẩm xã hội trong nước đến năm 2000 tăng gấp đôi năm 1990. Để đạt được điều đó, phải tích cực chuyển đổi cơ cấu kinh tế, trong đó có các thành phần kinh tế, các ngành, các lĩnh vực, các vùng kinh tế và hoàn thiện cơ chế quản lý, các chính sách lớn trên các lĩnh vực: kinh tế - xã hội, khoa học - công nghệ, văn hóa - giáo dục, tài nguyên - môi trường… mở rộng quan hệ quốc tế, xóa bỏ bao vây cấm vận của các thế lực thù địch, phát triển khoa học - kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Đại hội đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (gọi tắt là Cương lĩnh năm 1991). Cương lĩnh có giá trị định hướng và chỉ đạo to lớn đối với sự nghiệp các mạng của đất nước và làm nổi bật hai nội dung cơ bản: Quan niệm tổng quát về xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng; những phương hướng cơ bản để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Cương lĩnh năm 1991 khẳng định: Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản.

Nhằm tổng kết chặng đường 5 năm đầu tiên thực hiện công cuộc đổi mới, đề ra phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu, giải pháp phát triển chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng - an ninh trong 5 năm tới (1991 - 1995), Đảng bộ tỉnh tiến hành Đại hội lần thứ XIII (tháng 4 - 1991). Đại hội Đảng bộ tỉnh chỉ ra những mục tiêu cụ thể toàn tỉnh cần phải phấn đấu đến năm 1995 như sau:

Một là: Đẩy mạnh phát triển nông nghiệp và hàng tiêu dùng, phấn đấu đến năm 1995 sản lượng lương thực đạt 95 vạn tấn, giá trị công nghiệp tăng từ 7 đến 8%, xuất khẩu đạt 35 triệu USD (đô la).

Hai là: Giảm tỷ lệ tăng dân số xuống 1,9% vào năm 1995, phổ cập tiểu học và xóa mù chữ trong độ tuổi từ 15 - 35, xây dựng gia đình văn hóa, xóa đói, giảm nghèo làm giàu chính đáng.

Ba là: Xây dựng, củng cố vững chắc quốc phòng - an ninh, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Bốn là: Đổi mới tổ chức cán bộ, nâng cao năng lực lãnh đạo quản lý điều hành và vận động quần chúng của hệ thống chính trị, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa.

Để nhận thức sâu sắc quan điểm của Đảng và góp ý hoàn chỉnh Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII, giữa năm 1991 Đảng bộ huyện Lang Chánh tổ chức Đại hội lần thứ XVII vòng I. Sau khi nghiên cứu sâu sắc hệ thống dự thảo văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc và Đại hội Đảng bộ tỉnh, Đại hội Đảng bộ huyện đã nhất trí cao các vấn đề chiến lược, sách lược, các mục tiêu kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị; đồng thời đóng góp thêm ý kiến bổ sung, góp phần hoàn chỉnh văn kiện Đại hội. Việc học tập, nghiên cứu, đóng góp ý kiến xây dựng hoàn chỉnh văn kiện Đại hội Đảng các cấp là đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong Đảng, trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, đã góp phần nâng cao nhận thức chính trị tư tưởng, nắm vững các quan điểm chỉ đạo của Đảng để vận dụng đúng đắn và sáng tạo vào thực tiễn địa phương.

Từ ngày 29 đến ngày 30 - 10 - 1991, Đảng bộ huyện Lang Chánh đã tiến hành Đại hội lần thứ XVII (vòng II). Đại hội chỉ rõ: Nhiệm kỳ qua, tuy gặp nhiều khó khăn, thách thức, song Đảng bộ, nhân dân Lang Chánh đã tích cực triển khai thực hiện đường lối đổi mới của Đảng. Nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa được xác lập, cơ chế tập trung quan liêu bao cấp từng bước được xóa bỏ. Nền kinh tế nhiều thành phần đã tạo ra động lực thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển; các hoạt động giáo dục, y tế, thể dục - thể thao, văn hóa, văn nghệ có nhiều tiến bộ… Nhờ đó, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được ổn định và cải thiện một bước, niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường, chính trị xã hội ổn định, quốc phòng - an ninh vững chắc. Về những nhiệm vụ trọng tâm của nhiệm kỳ tới, Đại hội chỉ rõ: Cần phải tập trung sự lãnh đạo, chỉ đạo trong công tác tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh và bảo vệ rừng; phát triển giao thông, thủy lợi, thủy điện nhỏ phục vụ sản xuất và đời sống. Thực hiện tốt hơn vấn đề quản lý, sử dụng đất và xây dựng nông thôn mới theo tinh thần đổi mới của Đảng. Phát triển các thành phần kinh tế theo hướng sản xuất hàng hóa. Chú trọng đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ, nâng cao chất lượng đảng viên, xây dựng hệ thống chính trị ngang tầm nhiệm vụ của sự nghiệp đổi mới… Đại hội xác định các mục tiêu kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng - an ninh, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị những năm 1991 - 1995 như sau: Đẩy mạnh sản xuất nông - lâm nghiệp, phấn đấu đến năm 1995 đạt từ 10.500 tấn - 11.800 tấn lương thực quy thóc, đàn trâu và bò đạt 12.500 con, đàn lợn đạt 13.000 con, trồng mới 4.500 ha rừng (trong đó có 2.000 ha luồng), diện tích còn lại trồng cây công nghiệp, cây ăn quả và cây lấy gỗ. Hằng năm khai thác từ 600 - 800 ngàn cây luồng, 300 ngàn cây nứa, 500m 3  gỗ tròn. Đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội. Sớm trình duyệt và tổ chức thực hiện các dự án về các vùng kinh tế, dự án xây dựng hệ thống lưới điện cao thế, xây dựng hệ thống tiếp sóng truyền hình. Các công trình khác sử dụng nguồn vốn và lực lượng lao động của mỗi địa phương, kết hợp phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm.

Về văn hóa - xã hội, phấn đấu hạ tỷ lệ dân số từ 2,61% xuống còn 2,2% (vào năm 1995), thực hiện Luật phổ cập giáo dục tiểu học, ổn định trường phổ thông cơ sở nội trú, thực hiện tốt chương trình chống tái mù chữ. Tăng cường củng cố mạng lưới y tế cơ sở, phòng chống dịch bệnh, hạn chế bệnh sốt rét. Phấn đấu đạt từ 15% - 20% hộ dân đạt gia đình văn hóa, giảm nhanh tỷ lệ đói nghèo, chăm lo đời sống cho các gia đình chính sách.

Về quốc phòng - an ninh: Xây dựng củng cố vững chắc nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc vùng biên giới.

Về xây dựng Đảng và hệ thống chính trị: Phấn đấu 20% đảng bộ, chi bộ cơ sở đạt trong sạch, vững mạnh, tiến tới không còn đảng bộ, chi bộ yếu kém. Tích cực phát triển Đảng, củng cố hệ thống chính trị, đào tạo, bồi dưỡng lớp trẻ, phát triển cán bộ, đảng viên nữ.

Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa XVII gồm 29 đồng chí, đồng chí Phạm Văn Cảnh tiếp tục được bầu làm Bí thư Huyện ủy; đồng chí Phạm Đăng Nhượng làm Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy; đồng chí Hà Đăng Thông, Phó bí thư - Chủ tịch UBND huyện. Đại hội thành công tạo ra nguồn động lực mới thúc đẩy sự nghiệp đổi mới đi vào thế ổn định và phát triển.

2. Quá trình lãnh đạo triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XVII

Thực hiện quan điểm, đường lối đổi mới của Đảng và nghị quyết Hội nghị Đảng bộ giữa nhiệm kỳ khóa XVII, Huyện ủy đã tổ chức chỉ đạo Đảng bộ, nhân dân huyện nhà tập trung trí tuệ và lực lượng đẩy nhanh tiến độ phát triển của sự nghiệp đổi mới trên địa bàn toàn huyện.

Về Phát triển kinh tế

Sản xuất nông nghiệp đã có bước tăng trưởng khá. Nhất là từ khi chuyển đổi mô hình quản lý kinh tế trong nông nghiệp theo Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (còn gọi là khoán 10). Hộ nông dân được quyền sử dụng đất tổ chức sản xuất kinh doanh, nhờ đó nông nghiệp phát triển nhanh và mạnh hơn. Dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy và Ủy ban nhân dân huyện, nông dân đã đưa giống lúa có năng suất cao vào sản xuất đại trà (toàn huyện chiếm khoảng 80 - 90% diện tích). Năm 1992, sản xuất nông nghiệp phát triển khá hơn năm trước cả về diện tích, năng suất và sản lượng. Diện tích cây lúa đạt 102,4% kế hoạch, năng suất sản lượng đạt 106%. Năm 1991 tổng sản lượng lương thực đạt 9.269 tấn, năm 1992 tăng lên 10.498 tấn. Bình quân lương thực cho mỗi khẩu năm 1991 đạt 253 kg, năm 1992 tăng lên 259 kg. Tỷ trọng mầu lương thực chiếm 40% so với năm 1991 tăng 7%. Sản lượng lương thực năm 1995 đạt 10.500 tấn quy thóc, tăng 25% so với năm 1991. Năm 1994, 1995 mức độ tăng trưởng bình quân đạt 6.5%/năm. Riêng sản lượng lúa tăng 17%. Việc ứng dụng các biện pháp khoa học - kỹ thuật công nghệ mới vào thâm canh tăng vụ trở thành phong trào và đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội to lớn.

Chăn nuôi gia cầm, gia súc phát triển cả về số lượng và chất lượng; chú trọng đầu tư và cải tạo con giống tại địa phương, đẩy mạnh phòng chống dịch bệnh và hạn chế dịch bệnh lây lan. Do đó, chăn nuôi trong 5 năm giữ được mức tăng trưởng: Đàn lợn đạt 9.800 con, tăng 7,1% bình quân hàng năm. Đàn trâu, bò đạt trên 4.000 con, tăng bình quân 6,4% hàng năm; đàn gia cầm đạt 120.000 con, tăng 14.000 con so cùng kỳ. Riêng sản lượng cá nước ngọt tăng 3,5 lần so với năm 1991. Chăn nuôi đã đáp ứng được nhu cầu thực phẩm cho người tiêu dùng trong huyện, nhiều hộ có thu nhập khá, góp phần cải thiện nhu cầu sinh hoạt, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân.

Sản xuất lâm nghiệp đã có bước phát triển mới. Năm 1992, duy trì công tác trồng rừng luồng và quế đạt 500 ha, trồng 300 nghìn cây phân tán, gieo ươm 12 vạn cây quế. Trong năm 1993 - 1994, đã triển khai thực hiện dự án 327 ở 2 lâm trường và 03 xã: Giao An, Yên Khương và Đồng Lương, dần dần hình thành một số khu rừng tập trung trên địa bàn huyện. Tính đến năm 1995, toàn huyện đã giao 14.162 ha đất lâm nghiệp cho 1.869 hộ nông dân tổ chức sản xuất kinh doanh. Đất trống, đồi núi trọc được trồng rừng, trồng luồng, trồng các loại cây đặc sản như quế và trồng cây ăn quả. Kết hợp với giao đất, giao rừng, huyện đã chỉ đạo thực thi các dự án phát triển kinh tế nông - lâm nghiệp. Đến năm 1995, toàn huyện đã trồng được 7.000 ha rừng mới. Tất cả diện tích rừng trồng đã có chủ quản lý bảo vệ và chăm sóc. Bình quân mỗi năm trồng mới từ 500 - 600 ha rừng và hàng trăm ngàn cây phân tán. Tình trạng phát nương rẫy, khai thác rừng trái phép được ngăn chặn. Việc khai thác rừng được tiến hành theo quy hoạch, kế hoạch.

Sản xuất tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ được mở rộng, phát triển đa dạng, như: sản xuất vật liệu xây dựng, dịch vụ chế biến lương thực, thực phẩm đã đáp ứng một phần nhu cầu của người tiêu dùng, góp phần thu hút lực lượng lao động xã hội, từng bước tạo việc làm ổn định và góp phần cải thiện, nâng cao một bước đời sống nhân dân, tăng đóng góp cho ngân sách nhà nước. Đến năm 1995, giá trị thủ công nghiệp đạt 2,6 tỷ đồng tăng 6,5 lần so với năm 1990; trong đó sản phẩm chủ yếu là vật liệu xây dựng (như khai thác đá, nung vôi nấu gạch, giữ vững được nghề truyền thống như mây tre đan, nghề mộc dân dụng phục vụ tiêu dùng tại chỗ).

Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được tiến hành theo phương thức Nhà nước đầu tư một phần, nhân dân trong huyện đóng góp kinh phí và lao động xây dựng các công trình giao thông, thủy lợi, trường học, trạm xá, đường điện, nghĩa trang liệt sĩ, trạm phủ sóng truyền hình… Trong hai năm, Nhà nước đã đầu tư 10 tỷ đồng, nhân dân đóng góp hàng tỷ đồng. Nhiều công trình đã khánh thành và đưa vào sử dụng phát huy hiệu quả cả về kinh tế và xã hội.

Hoạt động của ngành thương mại - dịch vụ có nhiều chuyển biến trong việc khai thác nguồn hàng hóa phong phú, góp phần làm ổn định giá cả thị trường trên địa bàn huyện. Những mặt hàng thiết yếu phục vụ cho sinh hoạt, tiêu dùng trong nhân dân đã đáp ứng kịp thời, giá cả hợp lý. Do sản xuất phát triển nên từng bước hình thành các tụ điểm kinh tế, chợ nông thôn trên địa bàn huyện.

Hoạt động tài chính đảm bảo đúng nguyên tắc và quy định của Nhà nước. Việc thu chi ngân sách của các cơ sở được hướng dẫn và quản lý chặt chẽ. Năm 1995 thu ngân sách 1,2 tỷ đồng, tăng 2,5 lần so với năm 1990. Ngân hàng tập trung vào huy động vốn và tổ chức cho vay phát triển sản xuất. Đồng vốn đã được quản lý và chỉ đạo kinh doanh hợp lý. Hàng ngàn hộ sản xuất kinh doanh đã được ngân hàng cho vay vốn. Năm 1995, tổng dư nợ của ngân hàng lên tới 4 tỷ đồng. Riêng đầu tư cho vay xóa đói, giảm nghèo đạt 400 triệu đồng.

Trong 5 năm (1991 - 1995), Huyện ủy tập trung chỉ đạo phát triển kinh tế - xã hội, nhân dân huyện Lang Chánh đã cùng cả tỉnh, cả nước đẩy lùi khủng hoảng kinh tế, các thành phần kinh tế bung ra tổ chức sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã góp phần xóa đói, giảm nghèo làm giàu cho gia đình, cho quê hương, đất nước. Từ chỗ đói nghèo triền miên, đến năm 1995 đã có 5% tổng số gia đình xây dựng nhà kiên cố, 75% xây nhà vững chắc, 60%  tổng số gia đình có máy nghe tin tức, 30% tổng số gia đình có ti vi, toàn huyện có hàng trăm máy xay xát, hàng ngàn máy thủy điện nhỏ, hàng chục ô tô vận tải, hàng ngàn xe máy… Song, nền kinh tế tốc độ phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, tập quán sản xuất tự cấp, tự túc vẫn còn nặng nề, sản xuất hàng hóa phát triển chưa đều, chưa toàn diện, việc sắp xếp lao động, giải quyết việc làm còn lúng túng, cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội còn lạc hậu… Những hạn chế, khó khăn trên đòi hỏi Đảng bộ, nhân dân huyện nhà tiếp tục đoàn kết, nỗ lực khắc phục, vượt qua, đưa sự nghiệp đổi mới quê hương phát triển sâu rộng và vững chắc hơn.

Về văn hóa - xã hội

Lĩnh vực văn hóa - xã hội có bước phát triển mới. Công tác giáo dục - đào tạo đã mở được lớp chuyên, lớp chọn để học sinh khá có điều kiện phát triển tài năng. Huyện đã thành lập Trường Nội trú cấp II và cấp III, Trường bổ túc văn hóa cấp III, tạo điều kiện cho học sinh vùng sâu, vùng xa có đủ điều kiện học tập. Việc giáo dục đại trà được quan tâm. Mỗi năm học sinh tăng lên từ 5 - 8%. Năm 1991, có 7.603 học sinh, đến năm 1995 tăng lên 13.284 học sinh (tăng gần gấp đôi). Chất lượng thi tốt nghiệp, thi chuyển cấp, chuyển lớp đạt từ 95 - 97%. Hằng năm, nhiều trường có học sinh giỏi cấp huyện, cấp tỉnh. Mỗi năm có hàng chục học sinh trung học thi đậu đại học, cao đẳng, trung cấp.

Một trong những nhiệm vụ quan trọng trong nhiệm kỳ Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XVII là phấn đấu thực hiện phổ cập tiểu học và xóa mù chữ theo Chỉ thị số 27-CT (ngày 27 - 8 - 1990) của Bộ trưởng Bộ Giáo dục - Đào tạo và Luật Phổ cập tiểu học của Nhà nước (ban hành ngày 16 - 8 - 1991). Dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện đã quyết định thành lập Ban Chỉ đạo phổ cập giáo dục tiểu học và xóa mù chữ từ huyện đến xã. Các cấp ủy đảng, chính quyền đã đưa chương trình này vào chương trình hành động. Huyện ủy đã chỉ đạo điều tra lập hồ sơ báo cáo đúng thực trạng giáo dục ở địa phương. Trên cơ sở đó xây dựng kế hoạch giáo dục cho các năm. Hàng năm, Ban Chỉ đạo của huyện kiểm tra định kỳ 2 lần (vào tháng 6 và tháng 12). Ủy ban nhân dân huyện ra Chỉ thị về phổ cập tiểu học và xóa mù chữ, chỉ đạo các địa phương tiến hành. Phòng Giáo dục kết hợp với chính quyền các xã thực hiện khoán số lượng và chất lượng huy động 100 tuần đến lớp đối với trẻ thất học cho giáo viên tiểu học. Tổ chức ngày toàn dân đưa trẻ đến trường. Năm 1992, cơ sở vật chất cho các nhà trường được chú ý quan tâm, xây dựng được 12 phòng học nhà ngói ở xã Giao An, Thị trấn, Quang Hiến. Các trường còn lại đã nâng cấp sửa chữa nhà cửa, đóng thêm trang thiết bị phục vụ giảng dạy và học tập. Với tổng kinh phí đầu tư (cả nhà nước và nhân dân đóng góp) là 316 triệu đồng. Số lượng học sinh cấp I  và cấp II đạt 92,3% kế hoạch (so với cùng kỳ tăng 640 em), xóa mù chữ được 294 học viên (đã công nhận được 114 người xóa mù chữ), phổ cập các lớp xen ghép từ 12 - 14 tuổi được 300 em. Tính đến năm 1995, học sinh đầu năm học là 13.284 em, tăng 3.524 em so cùng kỳ; tổ chức xóa mù chữ cho 106 người; xây dựng được 73 phòng học kiên cố, 182 phòng tranh tre nứa lá. Chất lượng giáo dục ngày càng được nâng lên, khuyến khích học sinh phấn đấu học tập và rèn luyện, nâng cao năng lực cá nhân.

Cùng với phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo, Đảng bộ huyện Lang Chánh đã lãnh đạo toàn dân đẩy mạnh công tác y tế. Huyện ủy đã chỉ đạo làm tốt công tác vệ sinh môi trường, thường xuyên chỉ đạo kiểm tra, phát hiện dịch bệnh (chú trọng bệnh sốt rét và bướu cổ). Việc tiêm chủng các loại vác xin và cho trẻ em trong độ tuổi uống thuốc phòng bệnh bại liệt được quan tâm, 100% trẻ em dưới 6 tuổi được uống vitaminA, cấp không thu tiền 135,3 kg muối iốt. Bệnh viện huyện và hệ thống trạm xá xã được đầu tư xây dựng, mua sắm máy móc, phương tiện khám, chữa bệnh, đội ngũ thầy thuốc khám chữa bệnh ngày càng tiến bộ. Do làm tốt chính sách truyền thông dân số và kế hoạch hóa gia đình, đến năm 1995 tỷ lệ tăng dân số giảm xuống còn 0,05%, tỷ lệ phát triển dân số toàn huyện từ 2,64% vào năm 1991 giảm xuống 2,38% vào năm 1995.

Hoạt động văn hóa, thông tin, thể dục - thể thao tiếp tục được đẩy mạnh. Nhờ đó đường lối, chủ trương, quan điểm đổi mới của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với đồng bào các dân tộc. Hoạt động văn hóa truyền thống được phát huy, hủ tục lạc hậu từng bước được xóa bỏ, nếp sống văn hóa mới, gia đình văn hóa tiếp tục phát triển mở rộng, nếp sống trong cơ quan, thôn bản vui tươi, lành mạnh hơn. Công tác bưu chính - viễn thông phát triển mở rộng mỗi năm phát hành hàng ngàn tờ báo các loại. Nhiều tụ điểm đọc báo chí được duy trì thường xuyên với số lượng sách báo phong phú. Đài truyền thanh và truyền hình phục vụ đắc lực nhiệm vụ chính trị cho cả huyện, đồng thời đảm bảo thời lượng tiếp sóng đài phát thanh của tỉnh và Trung ương phục vụ đồng bào các dân tộc huyện nhà. Hệ thống thông tin liên lạc đã được nâng cấp, đến năm 1995 đã hòa mạng quốc gia hệ thống điện thoại điện báo, báo chí phát hành thường xuyên là 300.000 tờ. Điểm đọc sách báo được duy trì hoạt động thường xuyên với số lượng sách, báo phong phú, đảm bảo phục vụ nhu cầu của bạn đọc cho mọi đối tượng và lứa tuổi để nâng cao dân trí. Hệ thống phát thanh truyền hình đã được củng cố và nâng cấp, ước tính cả huyện có khoảng 600 ti vi các loại, đài phát lại truyền hình đảm bảo chuyển tải đủ chương trình của tỉnh và Trung ương phục vụ kịp thời cho nhân dân trong huyện. Hoạt động thể dục - thể thao phát triển mạnh ở các cơ quan, đơn vị, trường học. Mỗi địa phương, đơn vị xây dựng sân bóng đá, bóng chuyền, cầu lông thu hút mọi đối tượng tham gia.

Các chính sách xã hội đối với gia đình thương binh, liệt sĩ, gia đình có công với cách mạng, các đối tượng chính sách được Đảng bộ, chính quyền các cấp thực hiện tốt. Ngành Lao động, Thương binh và Xã hội đã thực hiện phối hợp cùng với các ngành chuyên môn phổ biến Nghị định 28CP và chính sách ưu đãi người có công với cách mạng. Năm 1995 đã tổ chức rà soát các đối tượng còn sót khi kê khai thành tích khen thưởng trong các cuộc kháng chiến, tổng hợp được 80 trường hợp còn tồn đọng trình HĐND huyện xem xét và đề nghị cấp trên giải quyết. Toàn huyện đã xây dựng và trao tặng hàng chục ngôi nhà tình nghĩa, hàng trăm sổ tiết kiệm tình nghĩa tặng các gia đình chính sách khó khăn, tổ chức thăm hỏi, tặng quà vào các dịp lễ, tết ... Hỗ trợ vốn và công sức lao động sửa chữa và làm mới được 6 ngôi nhà tình nghĩa, tặng 73 sổ tiết kiệm tình nghĩa cho các đối tượng chính sách xã hội. Ưu tiên cho vay vốn phát triển sản xuất, kinh doanh, xóa đói, giảm nghèo. Các xã vùng sâu, vùng xa được các cấp quan tâm cấp phát chăn màn chống muỗi, các chính sách ưu tiên của Đảng, Nhà nước được thực hiện kịp thời.

Về quốc phòng - an ninh

Công tác quốc phòng - an ninh được tiến hành theo Nghị quyết 02 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Nghị quyết 19 và đề án của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về xây dựng khu vực phòng thủ chiến đấu, gắn quốc phòng với an ninh, xây dựng phương án tác chiến, kế hoạch phòng thủ và quy chế hoạt động của lực lượng vũ trang. Công tác huấn luyện dân quân, tự vệ, quân dự nhiệm được tiến hành thường xuyên, công tác xây dựng làng, xã vững mạnh, an toàn, làm chủ đạt nhiều kết quả.

Trong nhiệm kỳ, việc tổ chức khám, tuyển quân hàng năm đạt 100% kế hoạch được giao, đã tiễn đưa 500 thanh niên vào bộ đội, đảm bảo số lượng và chất lượng của Tỉnh đề ra. Tổ chức thường xuyên việc huấn luyện cho 100% cán bộ, chiến sỹ dân quân ở các điểm trọng yếu, tập huấn theo chỉ lệnh số sỹ quan dự bị và cán bộ trưởng dân quân tự vệ ở các cơ quan; tổ chức quy tập mộ liệt sỹ, đáp ứng quyền lợi cho một số gia đình có quân nhân mất tích, thất lạc hồ sơ… Tăng cường công tác kiểm tra vũ khí, chú trọng công tác xây dựng làng xã an toàn làm chủ, thường xuyên huấn luyện củng cố lực lượng sẵn sàng chiến đấu khi có tình huống xảy ra.

Tại khu vực biên giới, tình trạng xâm canh, xâm cư được giải quyết thỏa đáng, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội chủ nghĩa ổn định. Nhiệm kỳ qua đã vận động được 200 người lầm lỗi ra tự thú. Các ngành nội chính đã phối hợp chặt chẽ xử lý kịp thời các vụ việc, hạn chế tệ nạn xã hội, tổ chức hướng dẫn đồng bào các dân tộc học tập và hành động theo pháp luật. Năm 1992, Huyện ủy Lang Chánh đã ban hành Nghị quyết số 01 về công tác an ninh quốc phòng gắn với việc tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 135 - HĐBT của Hội đồng bộ trưởng về chống tội phạm, Huyện ủy đã tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tuyên truyền các chủ trương của Đảng và pháp luật Nhà nước. Để nâng cao nhận thức cho nhân dân, ngăn ngừa tội phạm chú ý công tác an ninh vùng biên giới, trật tự xã hội ở những nơi tập trung nhiều dân cư. Tuy nhiên, một số vụ việc xảy ra về trật tự xã hội đã được các ngành pháp luật kịp thời xử lý đúng mức, mang tính chất giáo dục, răn đe là chính. Do vậy, tình hình an ninh chính trị được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo.

Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị

Đảng bộ huyện luôn xác định công tác xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh ngang tầm công cuộc đổi mới là nhiệm vụ trọng tâm, then chốt được kết hợp chặt chẽ các mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức. Nhờ đó, nhận thức chính trị, tư tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân vững vàng trước tác động to lớn của sự sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu, nâng cao bản lĩnh cách mạng, đẩy lùi âm mưu diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch, tạo dựng, củng cố niềm tin cho toàn dân vào thắng lợi của lý tưởng cộng sản, củng cố phát huy truyền thống cách mạng cao đẹp của quê hương, thúc đẩy sự nghiệp đổi mới thành công.

Về công tác cán bộ, đã coi trọng việc quy hoạch, bố trí, sử dụng cán bộ và sắp xếp bộ máy tổ chức theo hướng tinh gọn, giữ vững sự lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện. Trên cơ sở sử dụng hợp lý, lấy tiêu chuẩn năng lực, trình độ để xem xét, bố trí sắp xếp cán bộ một cách phù hợp. Trong nhiệm kỳ, Đảng bộ huyện đã đề bạt 28 trưởng, phó phòng ban cấp huyện, ngành. Đội ngũ cán bộ chủ chốt được kiện toàn cơ bản; số cán bộ chủ chốt cấp xã được đào tạo trung cấp lý luận chính trị, đội ngũ chủ chốt ở huyện có trình độ cao cấp lý luận chính trị ngày càng tăng. Cấp huyện có 75 đồng chí được đào tạo, bồi dưỡng về quản lý kinh tế và quản lý Nhà nước. Năm 1990, toàn huyện có 35 đảng bộ, chi bộ trực thuộc; năm 1995, kiện toàn lại còn 29 đảng bộ, chi bộ trực thuộc. Năm 1992, qua đánh giá, phân loại có 25 đơn vị được xếp loại trong sạch vững mạnh và khá bằng 80%, số yếu kém còn 6 đơn vị chiếm 20%. Năm 1994, có 7 đơn vị đạt trong sạch, vững mạnh (bằng 24% tổng số đảng bộ, chi bộ trực thuộc, tăng hơn 17% so với năm 1990), 19 đơn vị khá (bằng 65,7%), 3 đơn vị yếu kém (giảm 12,2% so với năm 1990). Năm 1995 tăng lên 9 đơn vị trong sạch, vững mạnh (bằng 31,08%), 19 đơn vị khá (65,7%) và 1 đơn vị yếu kém. Đảng viên xếp loại I và loại II bằng 97%, loại III bằng 3%. Về công tác phát triển Đảng, trong 5 năm đã mở 5 lớp đối tượng Đảng, bồi dưỡng kết nạp 348 đảng viên mới bằng 174% so với mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ XVII.

Đảm bảo cho Đảng bộ trong sạch, vững mạnh, công tác kiểm tra xây dựng Đảng được tiến hành thường xuyên với các nội dung: Kiểm tra chấp hành Điều lệ Đảng và Quy chế hoạt động của các cấp ủy, kiểm tra việc thực hiện Nghị quyết… Nhờ đó đã uốn nắn kịp thời những lệch lạc, chủ động ngăn ngừa sai phạm, giải quyết kịp thời các đơn thư khiếu nại, tố cáo và đã xử lý kỷ luật 88 đảng viên vi phạm Điều lệ Đảng, trong đó cách chức 2 cán bộ; khai trừ ra khỏi Đảng 15 đảng viên thoái hóa, biến chất; khiển trách 43 đảng viên. Các cấp ủy Đảng đã tích cực đổi mới phong cách lãnh đạo và phương pháp công tác, giữ vững truyền thống đoàn kết, thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, chăm lo lãnh đạo phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, quy hoạch, sắp xếp, đào tạo cán bộ và đội ngũ kế cận, đổi mới phương pháp chỉ đạo điều hành, xử lý thông tin.

Tuy vậy, một số cấp ủy chưa làm tốt công tác xây dựng Đảng, tính chiến đấu trong sinh hoạt ở các tổ chức cơ sở Đảng chưa cao, chất lượng sinh hoạt thấp, phân công nhiệm vụ cho từng đảng viên chưa cụ thể…

Đảng bộ đã tập trung xây dựng, củng cố hệ thống chính quyền các cấp và các đoàn thể nhân dân vững mạnh. Hội đồng nhân dân các cấp đã duy trì các kỳ họp theo luật định. Nghị quyết các kỳ họp phản ánh rõ nét việc vận dụng đường lối, chính sách của Đảng vào thực tiễn và được giám sát thực hiện nghiêm túc, góp phần tích cực phát triển kinh tế, văn hóa, an ninh - quốc phòng. Có kiểm tra, giám sát, sơ kết và rút ra những bài học kinh nghiệm trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cơ quan thường trực HĐND.

Hoạt động của UBND đã được thực hiện đúng quy chế, thực hiện chủ trương chính sách mới của Đảng kịp thời, điều hành công việc có tiến bộ. Ủy ban nhân dân các cấp được tăng cường, bổ sung nhiều đảng viên trẻ được đào tạo hệ thống. Nhờ đó vai trò quản lý điều hành mọi hoạt động xã hội chủ nghĩa đúng luật và kịp thời. Các dự án, đề án phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh được tập thể bàn bạc quyết định và được phân công phụ trách cụ thể tránh sự chồng chéo phiền hà, tăng cường trách nhiệm cá nhân. Công tác cải cách hành chính được triển khai đồng bộ, lập lại kỷ cương trên các lĩnh vực. Thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ trong điều hành và quản lý nhà nước, tạo điều kiện cho chính quyền cơ sở chủ động và phát huy tính năng động trong điều hành công việc nhằm giải quyết kịp thời, đúng thẩm quyền những vấn đề đặt ra ở địa phương, cơ sở, mọi quản lý điều hành của Nhà nước thực hiện theo luật pháp, tránh quan liêu, phiền hà, tham nhũng và các biểu hiện tiêu cực khác.

Nhìn chung, công tác điều hành, chỉ đạo của chính quyền từ huyện đến cơ sở có chuyển biến tích cực, từng bước nâng cao được hiệu lực quản lý nhà nước bằng pháp luật, chính sách, góp phần cải cách nền hành chính quốc gia, tích cực chống tham nhũng, buôn lậu, làm hàng giả, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo, không để xảy ra điểm nóng.

Tiếp tục đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân nhằm tập hợp đông đảo các tầng lớp nhân dân, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới. Các tổ chức quần chúng được củng cố, kiện toàn. Cán bộ, đảng viên có năng lực và phẩm chất tốt của Đảng được phân công phụ trách các chức vụ chủ chốt và trọng yếu. Huyện ủy đã quan tâm chỉ đạo các tổ chức quần chúng triển khai thực hiện Nghị quyết 08, 04, 07 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác vận động quần chúng. Các tổ chức Công đoàn, Mặt trận, Thanh niên, Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh… đã đổi mới phương thức và nội dung hoạt động, đoàn kết tổ chức hội viên tích cực tham gia các phong trào thi đua “Giúp nhau xóa đói, giảm nghèo”; “Nông dân sản xuất giỏi”, “Người phụ nữ mới xây dựng bảo vệ Tổ quốc”, “Thanh niên lập nghiệp, thanh niên giữ nước”, “Xây dựng văn hóa mới ở khu dân cư”, “Ông bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu hiếu thảo”, phong trào quyên góp ủng hộ người nghèo, riêng ủng hộ nhân dân Cu Ba đạt 14 triệu đồng, vận động mua sổ tình nghĩa đạt 52 sổ, mỗi sổ trị giá 100.000 đồng; các tổ chức đều xây dựng quỹ hội để làm cơ sở hoạt động Đồng thời, xây dựng các câu lạc bộ, tổ chức truyền bá khoa học kỹ thuật, công nghệ mới cho mọi thành viên. Chất lượng và hiệu quả hoạt động của các tổ chức chính trị đã góp phần củng cố, nâng cao niềm tin của đồng bào các dân tộc vào sự lãnh đạo của Đảng, vào sự tất thắng của sự nghiệp đổi mới.

10 năm (1986 - 1995), tiến hành sự nghiệp đổi mới sâu sắc, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội và an ninh - quốc phòng, bằng cách vừa nghiên cứu học tập, quan điểm, đường lối, chủ trương đổi mới của Đảng vừa tổ chức chỉ đạo vận dụng vào thực tiễn, Đảng bộ huyện Lang Chánh đã lãnh đạo toàn dân phát huy các yếu tố nội lực, tranh thủ sự đầu tư chỉ đạo của Trung ương, của Tỉnh ủy tập trung phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh, đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp được kiên quyết xóa bỏ, từng bước hình thành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, tạo ra động lực mới thúc đẩy các thành phần kinh tế bung ra sản xuất kinh doanh, xóa đói, giảm nghèo, làm giàu cho gia đình, cho xã hội. Các lĩnh vực kinh tế: nông nghiệp, lâm nghiệp, thương mại - dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp, tài chính, ngân hàng đã vượt qua giai đoạn khó khăn gay gắt và có sự khởi sắc. Khủng hoảng kinh tế - xã hội được đẩy lùi, đời sống vật chất của đồng bào các dân tộc được nâng lên, cơ sở hạ tầng kinh tế, văn hóa - xã hội được đổi mới, từng bước tạo ra điều kiện tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn. Các lĩnh vực văn hóa - xã hội từng bước khắc phục khó khăn, thách thức, đổi mới cơ sở vật chất kỹ thuật, đổi mới phương pháp và nội dung hoạt động, góp phần tạo ra động lực thúc đẩy sự nghiệp đổi mới phát triển. Lĩnh vực quốc phòng - an ninh được đảm bảo vững chắc, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo điều kiện và môi trường thuận lợi để Đảng bộ và nhân dân huyện nhà tiến hành sự nghiệp đổi mới. Hệ thống chính trị không ngừng được xây dựng, củng cố, kiện toàn trên các phương diện chính trị, tư tưởng, tổ chức, năng lực lãnh đạo, quản lý điều hành, tổ chức vận động quần chúng. Đó chính là nhân tố, là động lực cơ bản đưa sự nghiệp đổi mới trên quê hương Lang Chánh ngày càng đạt được những thành tựu và thắng lợi vững chắc hơn.

Phần 7: Sẽ tiếp tục được cập nhật

CÔNG KHAI TIẾN ĐỘ GIẢI QUYẾT TTHC

image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
Thống kê truy cập
  • Đang online: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tất cả: 1

BẢN QUYỀN SỬ DỤNG THUỘC HUYỆN LANG CHÁNH - THANH HÓA

Trưởng ban biên tập: Hoàng Văn Thanh - Chủ tịch UBND huyện Lang Chánh

Điện thoại:(02373)874.002; Fax: (02373)874.002; Email: langchanh@thanhhoa.gov.vn

Ghi rõ nguồn tin Thanh Hóa Portal hoặc http://langchanh.thanhhoa.gov.vn khi phát hành lại các thông tin từ Cổng thông tin điện tử.

Chung nhan Tin Nhiem Mang