I. TIẾP TỤC ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA 2005 - 2010
1. Đại hội Đảng bộ huyện Lang Chánh lần thứ XX
Vào thập niên đầu tiên của thế kỷ XXI, trên thế giới, hòa bình hợp tác và phát triển là xu thế chính, chủ đạo. Kinh tế thế giới và khu vực tiếp tục phục hồi và phát triển nhưng vẫn tiềm ẩn những yếu tố bất trắc khó lường. Toàn cầu hóa kinh tế tạo ra cơ hội cho tất cả các quốc gia, dân tộc nhưng cũng chứa đựng nhiều yếu tố bất bình đẳng, gây khó khăn, thách thức cho các quốc gia, nhất là các nước đang phát triển. Trong nước, những thành tựu của 20 năm đổi mới tạo động lực cho phát triển kinh tế - xã hội với nhịp độ nhanh hơn, chất lượng cao hơn. Tuy nhiên, cũng tiềm ẩn những diễn biến phức tạp. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới vẫn tồn tại. Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng và sự xuống cấp về đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí diễn ra nghiêm trọng. Các thế lực thù địch tiếp tục thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo” hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta.
Thực hiện Chỉ thị số 46-CT/TW, ngày 6 tháng 12 năm 2004 của Bộ Chính trị về Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội đại biểu của Đảng lần thứ X; từ ngày 27 đến ngày 28 tháng 10 năm 2005, Đảng bộ huyện Lang Chánh đã tiến hành Đại hội Đại biểu lần thứ XX, nhiệm kỳ 2005 - 2010. Tham dự Đại hội có 135 đại biểu thay mặt cho hơn 2.000 đảng viên trong toàn Đảng bộ.
Với tinh thần dân chủ, trí tuệ, trách nhiệm, Đại hội đã tập trung thảo luận và thông qua báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ khoá XIX, báo cáo kiểm điểm của Ban Chấp hành khóa XIX và báo cáo tổng hợp ý kiến đóng góp vào dự thảo báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khoá XV trình Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI, Báo cáo đóng góp ý kiến dự thảo các văn kiện của Ban Chấp hành Trung ương khóa IX trình Đại hội Đảng khoá X, báo cáo kết quả thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII về cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng (2000 - 2005).
Đánh giá những kết quả đạt được trong nhiệm kỳ 2000 - 2005 và những tồn tại cần khắc phục, Đại hội chỉ rõ: Kinh tế tiếp tục phát triển với tốc độ khá, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, khai thác các nguồn lực cho đầu tư đạt khá, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được tăng cường. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân tiếp tục được cải thiện. Chính trị xã hội ổn định, quốc phòng - an ninh vững chắc. Hoạt động của Đảng, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể có nhiều chuyển biến tích cực; việc tổ chức thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) và Kết luận Hội nghị Trung ương 4 (khóa IX) đạt được kết quả tốt. Quy chế dân chủ ở cơ sở được triển khai rộng khắp và đạt kết quả mới. Đoàn kết trong Đảng, trong nhân dân được tăng cường… Tuy vậy, Đảng bộ vẫn còn những tồn tại, hạn chế trong việc tổ chức thực hiện các chủ trương của Đảng, một số mục tiêu Đại hội XIX đề ra chưa đạt, Lang Chánh vẫn là một huyện nghèo, kinh tế phát triển chậm, chưa tương xứng với tiềm năng lợi thế.
Đại hội đề ra phương hướng, nhiệm vụ cho nhiệm kỳ 2005 - 2010 là
:
Phát huy sức mạnh đoàn kết, tiếp tục đổi mới tư duy, đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao hiệu quả, đẩy mạnh nông nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Nhiệm kỳ XX cần phấn đấu thực hiện thắng lợi các mục tiêu sau: Huy động nội lực, phát huy ngoại lực phát triển kinh tế với tốc độ cao bền vững, nâng cao sức cạnh tranh, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Đến năm 2010 phấn đấu thoát nghèo, 2020 trở thành huyện nông thôn mới. Trong nhiệm kỳ cần phấn đấu thực hiện 5 chương trình kinh tế lớn của tỉnh và huyện, đó là: Chương trình phát triển lâm nghiệp; Chương trình phát triển kinh tế - xã hội miền Tây Thanh Hóa trong đó có Lang Chánh; Chương trình đào tạo sử dụng nguồn nhân lực; Chương trình phát triển xuất khẩu; chương trình phát triển du lịch. Cùng với phát triển kinh tế, cần chăm lo phát triển văn hóa - xã hội; Phấn đấu 100% xã của huyện phổ cập tiểu học, giải quyết việc làm trong 5 năm cho 50 ngàn lao động, nâng tỷ lệ đào tạo nghề cho lao động xã hội lên 38%, tỷ lệ tăng dân số 1%, tỷ lệ hộ nghèo còn 40% (theo tiêu chí mới).
Tăng cường tiềm lực quốc phòng - an ninh, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao năng lực quản lý điều hành của chính quyền, năng lực vận động, đoàn kết toàn dân của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể; năng lực lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng và sức chiến đấu của Đảng bộ; phấn đấu 80% tổ chức cơ sở Đảng đạt trong sạch, vững mạnh, 85% đảng viên đủ tư cách hoàn thành tốt nhiệm vụ
1
.
Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa XX, gồm 35 đồng chí và bầu đoàn đại biểu đi dự Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII gồm 8 đại biểu chính thức và 01 đại biểu dự khuyết. Trong phiên họp đầu tiên, Ban Chấp hành đã bầu Ban Thường vụ Huyện ủy; đồng chí Lê Quang Tích được bầu làm Bí thư Huyện ủy, đồng chí Lê Minh Hành được bầu làm Phó Bí thư Thường trực và đồng chí Hà Chí Phẩn được bầu làm Phó Bí thư phụ trách chính quyền.
Đại hội kêu gọi toàn thể cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân trong huyện tiếp tục phát huy truyền thống của Đảng bộ là đoàn kết, nhất trí, khắc phục khó khăn, nêu cao tinh thần chủ động, sáng tạo, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước quyết tâm phấn đấu hoàn thành thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ.
2. Kết quả triển khai thực hiện Nghị quyết Đảng bộ huyện lần thứ XX
Nhiệm kỳ 2005 - 2010, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc huyện Lang Chánh đã đoàn kết một lòng, nỗ lực vượt qua khó khăn, thử thách, quyết tâm phấn đấu thực hiện thắng lợi các Nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI, Nghị quyết của Đảng bộ huyện Khoá XX, đã tạo ra những chuyển biến quan trọng trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Về phát triển kinh tế
Kinh tế tiếp tục có tốc độ tăng trưởng khá, năm 2010 đạt 13%, tăng 6,01% so với năm 2005; tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm 8,1%. Tổng sản phẩm GDP năm 2005 là 162,2 tỷ đồng, năm 2010 tăng lên 250 tỷ đồng. Thu nhập bình quân đầu người năm 2010 đạt 5.454.000đ/người/năm. Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng: tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ và giảm dần tỷ trọng nông nghiệp; cơ cấu kinh tế năm 2005 là lâm - nông nghiệp 73%, công nghiệp 14,8%, dịch vụ 12,2% (trong GDP cả tỉnh là 31,6% - 35,1% - 33,3%). Năm 2010, lâm nông nghiệp đạt 64,4%, công nghiệp đạt 19,4%, dịch vụ đạt 16,2%. Tổng nguồn vốn huy động cho đầu tư phát triển 5 năm là 580.408 triệu đồng; trong đó vốn đầu tư xây dựng cơ bản đạt 241,172 tỷ đồng, vốn nhân dân đóng góp ước đạt 20 tỷ đồng, vốn tín dụng đầu tư phát triển đạt 319,236 tỷ đồng, nguồn vốn đầu tư liên tục tăng qua các năm.
Sản xuất lâm - nông nghiệp:
Tổng giá trị sản xuất lâm nông thủy sản năm 2005 là 135,8 tỷ đồng, đến năm 2010 đạt 194,6 tỷ đồng; tốc độ tăng trưởng bình quân thời kỳ 2005 - 2010 là 7,46%. Sản xuất nông nghiệp đạt kết quả khá về diện tích, năng suất, sản lượng, lương thực năm 2010 đạt 13.000 tấn, năng suất lúa đạt 41,6 tạ/ha, góp phần ổn định đời sống nhân dân .
Ngành chăn nuôi có bước phát triển nhanh chóng, đến năm 2010 tổng đàn trâu đạt 14.910 con, tăng 2.556 con so với năm 2005, đạt 132,9% mục tiêu nghị quyết; đàn bò có 4.138 con, tăng 1.198 con so với năm 2005; tổng đàn lợn đạt 16.182 con; đàn dê có 2.779 con; gia cầm, thủy cầm có 262.950 con, đạt 129%; sản lượng cá ao, hồ hằng năm đạt 70 tấn, tăng 21,6 tấn, đạt 165% so với Nghị quyết Đại hội đề ra. Hình thành các mô hình chăn nuôi trang trại theo hướng sản xuất hàng hóa, xuất hiện nhiều trang trại, gia trại có quy mô hơn 300 con bò, 22 gia trại có từ 10 con trâu, bò trở lên. Đồng thời, thực hiện tốt công tác phòng, chống dịch bệnh cho gia súc, gia cầm nên ít có dịch bệnh lớn xảy ra.
Công tác khoanh nuôi, tái sinh, chăm sóc, bảo vệ rừng và khai thác lâm sản đạt kết quả khá. Giá trị sản xuất năm 2010 đạt 115.611,6 triệu đồng, đạt 242,9% so với năm 2005; chỉ tiêu trồng rừng tập trung liên tục tăng qua các năm, đến năm 2010 đạt 156% so với Nghị quyết Đại hội; các chỉ tiêu bảo vệ khoanh nuôi, trồng cây phân tán, khai thác gỗ và chế biến lâm sản đã có bước ổn định và phát triển. Công tác phòng, chống cháy rừng được được tăng cường, không có cháy rừng lớn xảy ra; tỉ lệ che phủ rừng năm 2010 đạt 93,5%, đạt 118% vượt so với Nghị quyết Đại hội đề ra.
Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Lang Chánh đã chỉ đạo ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất; đến năm 2010 đã xây dựng được 21 mô hình phát triển kinh tế nông nghiệp, trong đó có 9 mô hình cấp tỉnh (04 mô hình chăn nuôi gia súc, gia cầm; 05 mô hình trồng cây lâm nghiệp), 12 mô hình cấp huyện (01 mô hình chăn nuôi đại gia súc, 10 mô hình trồng cây như: lúa lai, ngô lai, khoai tây, 01 mô hình trồng cây dược liệu). Đã tổ chức 213 lớp tập huấn cho 9.115 lượt người tham gia với nhiều nội dung đa dạng như kỹ thuật canh tác các loại cây nông nghiệp, kỹ thuật trồng các loại cây lâm nghiệp, kỹ thuật chăn nuôi gia súc, gia cầm, kỹ thuật canh tác trên đất dốc, kỹ thuật trồng cỏ Vectiver chống sạt lở đất được triển khai với quy mô ngày càng mở rộng.
Sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp:
Giá trị sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp liên tục tăng, năm 2010 đạt 15.676,8 triệu đồng, so với năm 2005 đạt 211,3%. Phát triển doanh nghiệp và thu hút đầu tư trên địa bàn có nhiều chuyển biến. Năm 2010, huyện có 02 công ty trách nhiệm hữu hạn, 03 hợp tác xã chế biến lâm sản, 05 hợp tác xã điện năng, 04 văn phòng đại diện của các công ty, hầu hết các công ty và cơ sở sản xuất với quy mô nhỏ, sản phẩm chủ yếu là sản phẩm thô hoặc một số công ty thành lập và đặt văn phòng đại diện ở các lĩnh vực hoạt động chỉ tập trung vào xây dựng cơ bản, chưa khai thác tiềm năng thế mạnh của huyện, nên việc giải quyết việc làm cho nhân dân trên địa bàn huyện chưa đạt hiệu quả cao.
Các ngành sản xuất và dịch vụ:
Bưu chính, viễn thông phát triển nhanh, tốc độ tăng trưởng cao; các mạng di động hoạt động phủ sóng 80% số khu dân cư; 100% số xã có điện thoại, đạt 20 máy/100 dân, tăng 8 lần so với Nghị quyết Đại hội; thương mại - dịch vụ phát triển theo tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 15%/năm, đáp ứng kịp thời các mặt hàng thiết yếu phục vụ nhân dân; tổng mức bán lẻ hàng hóa trung bình đạt 35 tỉ đồng/năm tăng 33% so với năm 2005. Hoạt động vận tải hành khách, hàng hóa ngày càng đáp ứng tốt nhu cầu sản xuất và đi lại của nhân dân.
Trong nhiệm kỳ 2005 - 2010, công tác tài chính ngân sách đạt được những kết quả đáng khích lệ, thu ngân sách năm sau cao hơn năm trước, chế độ chính sách và hoạt động thường xuyên của bộ máy từ huyện đến cơ sở được đáp ứng kịp thời, đúng luật. Thu ngân sách năm 2005 đạt 46.596 triệu đồng đến năm 2010 đạt 179.759 triệu đồng, đạt 358,7% trong đó thu tại địa bàn đến năm 2010 là 3.956 triệu đồng đạt 278,6%; chi ngân sách năm 2005 là 46.596 triệu đồng. Hoạt động ngân hàng và tín dụng đã bám sát nhiệm vụ chính trị của huyện; triển khai tốt các chính sách điều chỉnh lãi suất, vốn kích cầu của Chính phủ, đa dạng hóa các lĩnh vực và hình thức cho vay, cho vay đúng đối tượng, đúng quy định của pháp luật tạo điều kiện cho người sản xuất kinh doanh tiếp cận được các nguồn vốn đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo. Dư nợ của các ngân hàng, tổ chức tín dụng trên địa bàn đến năm 2009 đạt 150 tỉ đồng, trong đó dư nợ cho hộ nghèo vay vốn đạt gần 80 tỉ đồng.
Xây dựng cơ sở hạ tầng:
Huyện ủy tập trung chỉ đạo có hiệu quả các công trình xây dựng thuộc dự án 135 như: là xây dựng trung tâm cụm xã Trí Nang, đường giao thông bản En đi thác Ma Hao, trong chương trình kiên cố hóa trường lớp học đã xây dựng và khánh thành 101 phòng học. Tiến hành khởi công các tuyến đường thuộc quốc lộ 15A, đoạn từ Lý Ải đi Giao An, Giao Thiện dài 10,9 km; Tân Phúc - Đồng Lương dài 6,6 km. Thực hiện chương trình 30a, khởi công tuyến đường từ Thị Trấn đi Tam Văn, công trình giao thông Khu I đi Khu 3 xã Giao Thiện, công trình đường tràn liên hợp sông Cảy xã Trí Nang với tổng số vốn là 580.408 triệu đồng.
Về văn hóa - xã hội
Hoạt động văn hóa, thông tin, thể dục thể thao được đẩy mạnh, phục vụ các nhiệm vụ chính trị của địa phương, góp phần giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc, đồng thời nâng cao đời sống tinh thần cho các tầng lớp nhân dân. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư" tiếp tục được thực hiện tốt; đến năm 2010, có 111 làng, bản, cơ quan khai trương xây dựng đơn vị văn hoá, đạt 64,5% tổng số đơn vị trên toàn huyện; có 02 xã khai trương xây dựng xã văn hóa; 65% số hộ đạt danh hiệu hộ gia đình văn hóa (vượt mục tiêu Nghị quyết Đại hội đề ra). Di tích văn hóa chùa Mèo được trùng tu tôn tạo và tổ chức hoạt động lễ hội đáp ứng nhu cầu đời sống tâm linh cho nhân dân.
Hệ thống truyền hình được củng cố và đổi mới về nội dung, tăng thời lượng và mở rộng phạm vi phát sóng đến vùng sâu, vùng cao. Đến năm 2010, hệ thống truyền hình được phủ sóng trên 85% khu dân cư. Hoạt động cưới, tang, lễ hội được thực hiện theo nếp sống văn hóa mới. Hoạt động thể dục thể thao được đẩy mạnh, tỉ lệ dân số thường xuyên luyện tập thể dục thể thao đạt 30%, các môn thể thao truyền thống được khôi phục và duy trì như: bóng đá, bóng chuyền, cầu lông...
Giáo dục - đào tạo tiếp tục có nhiều chuyển biến tiến bộ, góp phần vào mục tiêu nâng cao dân trí đào tạo nguồn nhân lực, phục vụ cho phát triển kinh tế
-
xã hội địa phương. Mạng lưới trường lớp tiếp tục phát triển, đáp ứng nhu cầu học tập của con em các dân tộc trong huyện. Tỷ lệ huy động học sinh đến lớp đầu cấp học hàng năm đạt trên 98%. Chất lượng giáo dục từng bước được nâng lên, có nhiều học sinh các cấp học được công nhận danh hiệu học sinh giỏi cấp tỉnh, năm 2005 có 11 em thi đỗ vào các trường đại học, đến năm 2010 có 34 em thi đỗ vào các trường đại học. Duy trì và đảm bảo các chỉ tiêu về đạt chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục tiểu học, giáo dục trung học cơ sở 11/11 xã, trị trấn; hệ thống cơ sở vật chất phòng học được tăng cường, số phòng học kiên cố đến năm 2009 đạt 496 phòng đạt 151,6% so với năm 2006; 100% trường học đều có máy vi tính, đã kết nối mạng Internet và đã ứng dụng công nghệ thông tin vào phục vụ giảng dạy trong hệ thống giáo dục; đến năm 2009 có 7 trường đạt chuẩn Quốc gia. Công tác dạy nghề, đến năm 2009 đã tổ chức dạy nghề cho 1.386 lao động nông thôn, đến hết 2010 đạt 120% nghị quyết. Công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập được đẩy mạnh và đã chuyển biến tích cực góp phần thúc đẩy phong trào thi đua học tập ngày càng nâng lên.
Mạng lưới y tế từ huyện đến cơ sở tiếp tục được củng cố, không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ, đáp ứng nhu cầu bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân. Cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế được đầu tư xây dựng và nâng cao chất lượng. Công tác khám, chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe cho nhân dân ngày càng được nâng cao; các loại dịch bệnh được kiểm soát chặt chẽ, không để xảy ra dịch lớn; công tác dân số kế hoạch hóa gia đình và chăm sóc sức khỏe sinh sản không ngừng được cải thiện, tỉ lệ tăng dân số tự nhiên được khống chế ở mức cho phép; đến năm 2010 có 4/11 xã đạt chuẩn quốc gia về y tế.
Thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội; đời sống của nhân dân các dân tộc trong huyện không ngừng được cải thiện, chính sách đối với người có công, người được hưởng bảo trợ xã hội đầy đủ, kịp thời, đúng đối tượng. Phong trào
“Đền ơn đáp nghĩa"
được đẩy mạnh, cùng với nguồn kinh phí của Nhà nước đã hỗ trợ xây dựng 3.768 nhà ở cho hộ nghèo theo Quyết định 134/CP, 167/TTg của Chính phủ và Chỉ thị 08 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy. Bên cạnh hỗ trợ của Nhà nước, các cấp ủy, chính quyền đã tập trung chỉ đạo quần chúng nhân dân hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau trong công cuộc xóa đói giảm nghèo, tỉ lệ hộ nghèo liên tục giảm qua các năm, đến năm 2010 tỷ lệ hộ đói nghèo giảm xuống còn 40,07
%.
Công tác xuất khẩu lao động được tăng cường, góp phần xóa đói giảm nghèo nhanh ở địa phương.
Về quốc phòng, an ninh
Hằng năm, các cấp ủy Đảng, chính quyền luôn coi trọng lãnh đạo công tác quốc phòng - an ninh, kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường công tác quốc phòng - an ninh. Các lực lượng quân sự, công an, bộ đội biên phòng thường xuyên luyện tập nâng cao bản lĩnh chính trị và khả năng sẵn sàng chiến đấu, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân và biên phòng toàn dân, an ninh biên giới được giữ vững. Công tác tuyển chọn công dân nhập ngũ, quản lý quân dự bị động viên, dân quân tự vệ, công tác hậu phương quân đội được các cấp, các ngành thực hiện nghiêm túc.
Thường xuyên giáo dục nâng cao ý thức cảnh giác chống âm mưu
"Diễn biến hòa bình
", bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch. Phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc được triển khai sâu rộng và đồng bộ; an ninh nội địa, an ninh biên giới và trật tự an toàn xã hội được đảm bảo, tội phạm và tệ nạn xã hội từng bước được kiềm chế.
Thực hiện tốt Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của đội ngũ cán bộ tư pháp trong tình hình mới. Công tác giáo dục đề cao ý thức cảnh giác phòng chống tội phạm, công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật được cấp ủy, chính quyền các ngành các cấp quan tâm chỉ đạo triển khai thường xuyên, vì vậy nhận thức và ý thức tôn trọng pháp luật của nhân dân được nâng lên rõ rệt.
Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị
Trong nhiệm kỳ 2005 - 2010, công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị tiếp tục được coi trọng; năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở Đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên được nâng lên.
Công tác chính trị tư tưởng:
Thực hiện Chỉ thị 23-CT/TW, ngày 27 - 3 - 2003, của Ban Bí thư Trung ương Đảng khoá IX và Chỉ thị 06-CT/TW năm 2006 của Bộ Chính trị về tổ chức cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” , Ban Thường vụ Huyện ủy đã tập trung chỉ đạo triển khai đến toàn thể cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân, qua cuộc vận động này đã nâng cao một bước về nhận thức của cán bộ đảng viên và nhân dân từ đó chuyển biến về hành động trong đạo đức, lối sống. Việc tuyên truyền thực hiện cuộc vận động “
Học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh
” với bốn chủ đề xuyên suốt: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao đạo đức lối sống, nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, về thực hành tiết kiệm chống tham nhũng, lãng phí, về nâng cao ý thức trách nhiệm hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, về xây dựng Đảng thật sự trong sạch “Là đạo đức, là văn minh”. Toàn Đảng bộ đã triển khai trên 100 lớp học tập cho hàng chục ngàn lượt cán bộ đảng viên, đoàn viên hội viên và nhân dân. Hầu hết cán bộ, đảng viên đều có bài thu hoạch và đăng ký làm theo. Nhiều tấm gương điển hình tiên tiến với những việc làm cụ thể có sức thuyết phục. Đặc biệt, “Hội thi kể chuyện về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” có sức lan tỏa rộng khắp, được cán bộ, đảng viên và nhân dân nhiệt tình hưởng ứng.
Hệ thống tuyên giáo xã, thị trấn được thành lập và hoạt động bước đầu có hiệu quả. Công tác sưu tầm, biên soạn, tuyên truyền lịch sử Đảng, lịch sử truyền thống được quan tâm và triển khai sâu rộng. Hoạt động báo cáo viên, tuyên truyền miệng được duy trì đều đặn. Công tác bồi dưỡng lý luận chính trị cũng được quan tâm đúng mức.
Công tác tổ chức cán bộ:
Thường xuyên quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ Đảng, chính quyền các ngành
,
các cấp ngày càng vững mạnh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Quan tâm xây dựng, rà soát, bổ sung quy hoạch cán bộ lãnh đạo quản lý các cấp nhiệm kỳ 2005 - 2010, 2010 - 2015 và đến 2020. Trên cơ sở đó cử cán bộ đi đào tạo bồi dưỡng chuyên môn, lý luận chính trị để tạo nguồn cán bộ đạt chuẩn theo quy định, từ đó bố trí sắp xếp cán bộ phù hợp trình độ năng lực của từng người. Trong nhiệm kỳ 2005 - 2010, bổ nhiệm mới 27 đồng chí, bổ nhiệm lại 20 đồng chí, điều động luân chuyển, tăng cường và sắp xếp lại 29 đồng chí, đề nghị chỉ định bổ sung Ban Chấp hành Đảng bộ huyện 08 đồng chí, bầu bổ sung 05 đồng chí vào Ban Thường vụ Huyện ủy đúng theo quy định và hướng dẫn của cấp trên.
Công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng đạt trong sạch vững mạnh, năm 2006 tổ chức cơ sở Đảng đạt danh hiệu trong sạch vững mạnh đạt 62%, đến năm 2009 tăng lên 72%, năm 2010 đạt 78%. Công tác phát triển Đảng luôn được quan tâm, đã kết nạp được 664 đảng viên; đến năm 2010 tất cả các thôn bản đều có chi bộ Đảng, có 02 chi bộ cơ quan xã được thành lập, hoạt động từng bước đi vào nền nếp, hiệu quả thiết thực. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ được cấp ủy, tổ chức Đảng quan tâm góp phần xây dựng, bảo vệ Đảng bộ trong sạch, vững mạnh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ mới. Trong nhiệm kỳ, đã phối hợp với trường Chính trị tỉnh mở được 02 lớp trung cấp lý luận chính trị cho 189 học viên; Trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện đã mở được 04 lớp sơ cấp lý luận chính trị cho 200 học viên, 08 lớp nhận thức về Đảng cho hơn 600 học viên, 07 lớp bồi dưỡng cấp uỷ cho trên 800 lượt cán bộ đảng viên tham gia.
Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng
: Hằng năm, cấp ủy và Ủy ban kiểm tra luôn chủ động xây dựng kế hoạch và thực hiện tốt kế hoạch kiểm tra, giám sát. Trong nhiệm kỳ (2005 - 2010), đã thực hiện kiểm tra tổng số 77 cuộc; thi hành kỷ luật 02 tổ chức Đảng (01 cảnh cáo; 01 khiển trách), kỷ luật 88 đảng viên từ khiển trách đến khai trừ. Có 84 đơn thư khiếu nại tố cáo, Huyện ủy đã giải quyết 68 đơn, chuyển các ngành chức năng giải quyết 16 đơn; phối hợp cùng với Ủy ban huyện và các ngành chức năng giải quyết kịp thời, không có khiếu nại do bị kỷ luật oan sai. Công tác kiểm tra, giám sát kịp thời chỉ ra những thiếu sót, khuyết điểm cần khắc phục, ngăn ngừa những vi phạm của tổ chức Đảng và đảng viên; đề xuất biện pháp xử lý kịp thời trong quản lý và hoạt động của các cơ quan, đơn vị, góp phần ngăn chặn các tiêu cực phát sinh trong đội ngũ cán bộ, đảng viên và tổ chức cơ sở Đảng trong toàn Đảng bộ.
Công tác dân vận:
Các cấp uỷ Đảng đã quan tâm xây dựng và thực hiện quy chế công tác dân vận của cấp uỷ, công tác xây dựng cơ sở và thực hiện quy chế dân chủ, tuyên truyền vận động nhân dân phát huy truyền thống tương thân, tương ái giúp nhau xóa đói giảm nghèo. Tiếp tục vận động nhân dân xây dựng nếp sống văn hoá ở khu dân cư, xây dựng đơn vị “Dân vận khéo”; thường xuyên nắm vững tình hình, tâm tư nguyện vọng của dân, giải quyết những vấn đề nhân dân quan tâm, vận động quần chúng nhân dân tự giác thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Không ngừng củng cố nâng cao niềm tin của nhân dân, từ đó tích cực thi đua lập thành tích hoàn thành xuất sắc các mục tiêu mà nghị quyết của cấp ủy các cấp đề ra.
Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội:
đã có nhiều chuyển biến tiến bộ cả về tổ chức và hoạt động, góp phần quan trọng trong việc thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước ở cơ sở. Tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, thực hiện pháp lệnh dân chủ ở cơ sở, góp phần đảm bảo an ninh, quốc phòng, xây dựng khu dân cư an toàn về an ninh trật tự, khu dân cư có đời sống văn hóa tốt, đã tổ chức tốt các họat động nhân đạo, từ thiện kêu gọi quần chúng nhân dân với tinh thần tương thân, tương ái, ủng hộ, giúp đỡ và chia sẽ với đồng bào bị thiên tai, người nghèo khổ, nạn nhân chất độc da cam... giảm bớt khó khăn vươn lên hòa nhập cộng đồng.
Hoạt động của Hội đồng nhân dân:
Đã phát huy được vị trí vai trò là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, thường xuyên duy trì tốt các kỳ họp, chất lượng các kỳ họp ngày càng được nâng lên, các nghị quyết, quyết định của Hội đồng nhân dân ban hành sát với thực tiễn, đảm bảo đúng pháp luật của Nhà nước và đi vào cuộc sống đem lại hiệu quả thiết thực. Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân thông qua việc thẩm tra báo cáo, tờ trình của Ủy ban nhân dân tạo điều kiện để đại biểu Hội đồng nhân dân phát huy dân chủ, trí tuệ để đóng góp vào các giải pháp thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện; việc tiếp xúc cử tri đã có nhiều đổi mới với nhiều nội dung thiết thực đáp ứng được tâm tư nguyện vọng chính đáng của nhân dân, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của huyện giai đoạn 2005 - 2010.
Công tác xây dựng chính quyền:
Trong nhiệm kỳ, Ban Chấp hành Đảng bộ luôn quan tâm chỉ đạo từ huyện đến cơ sở việc sắp xếp, xây dựng quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý, điều hành của chính quyền, từng bước được chuẩn hoá về chuyên môn và lý luận chính trị, cụ thể đã sắp xếp lại các chức danh chủ chốt của 05 xã, bước đầu đã đem lại hiệu quả về cải cách hành chính ở cấp huyện, xã khó khăn, vướng mắc của nhân dân được giải quyết kịp thời. Tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân các cấp có nhiều đổi mới trên các lĩnh vực: kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, phân định rõ hơn chức năng nhiệm vụ của các cơ quan chuyên môn, cơ bản khắc phục được sự chồng chéo trong chỉ đạo điều hành, quan tâm xử lý có kết quả những vấn đề bức của nhân dân, đồng thời tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ, về nhiệm vụ, quyền hạn giữa tập thể Ủy ban nhân dân với cá nhân phụ trách, thực hiện tốt về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, hạn chế những sai phạm, giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Trong nhiệm kỳ 2005 - 2010, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Lang Chánh đã linh hoạt, sáng tạo lãnh đạo nhân dân toàn huyện thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, đã khơi dậy, phát huy được tiềm năng thế mạnh của huyện. Nhờ vậy, kinh tế có bước tăng trưởng khá, đạt và vượt nhiều chỉ tiêu mà Đại hội XX đề ra; cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng tăng tỷ trọng tiểu thủ công nghiệp, thương mại và dịch vụ. Văn hoá xã hội có nhiều tiến bộ, đời sống nhân dân được cải thiện trên nhiều mặt. Quốc phòng - an ninh được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo. Công tác thực thi pháp luật có nhiều tiến bộ. Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân được phát huy, công tác dân vận của Đảng có nhiều chuyển biến, đổi mới; Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể đã đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội. Bộ máy chính quyền từ huyện đến các xã, thị trấn từng bước được kiện toàn; cải cách hành chính có chuyển biến. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở Đảng từng bước được nâng lên; tinh thần đoàn kết thống nhất trong nội bộ Đảng được giữ gìn và phát huy. Hệ thống chính trị ngày càng được củng cố; ý thức chính trị, tư duy và trình độ của cán bộ có bước trưởng thành nhiều mặt, bước đầu tích luỹ được kinh nghiệm và thực hiện có hiệu quả những vấn đề mới về phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội.
II. TIẾP TỤC ĐẨY MẠNH TOÀN DIỆN SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI, CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN (2010 - 2015)
1. Đại hội Đảng bộ huyện Lang Chánh lần thứ XXI
Sau 25 năm đổi mới (1986 - 2010), đất nước vững bước đi lên trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và giành nhiều thành tựu quan trọng. Năm 2010, Việt Nam đã ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển; tăng cường hội nhập quốc tế. Những thành tựu đất nước đạt được trên các lĩnh vực là động lực quan trọng cho nhân dân cả nước nói chung, Đảng bộ và nhân dân Lang Chánh nói riêng vững vàng bước vào thời kỳ mới.
Thực hiện Chỉ thị số 37-CT/TW ngày 04 - 8 - 2009 của Bộ Chính trị về Đại hội Đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XI của Đảng và tiến tới Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lần thứ XVII, từ ngày 19 đến ngày 21 tháng 7 năm 2010, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Lang Chánh được tiến hành. Dự Đại hội có 150 đại biểu, đại diện cho 2.412 đảng viên trong toàn Đảng bộ.
Đại hội đã thông qua báo cáo của Ban Chấp hành Đảng bộ khóa XX trình Đại hội gồm: Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa XX; Báo cáo kiểm điểm của Ban Chấp hành khóa XX và các Báo cáo tổng hợp ý kiến đóng góp vào dự thảo báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XVI trình Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII; Báo cáo đóng góp ý kiến dự thảo các văn kiện của Ban Chấp hành Trung ương khóa X trình Đại hội Đảng khoá XI.
Đại hội đã đề ra phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp nhiệm kỳ 2010 - 2015. Về phương hướng chung, Đại hội xác định:
Lang Chánh là một huyện nghèo, đặc biệt khó khăn do vậy trong thời gian tới cần tập mọi nguồn lực cho mục tiêu xóa đói giảm nghèo đưa huyện tiếp tục phát toàn diện. Phấn đấu đến năm 2015 đưa huyện Lang Chánh thoát khỏi một huyện nghèo và kém phát triển so với các huyện trong tỉnh.
Đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức Đảng; tiếp tục thực hiện có hiệu quả cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; nâng cao hiệu lực, hiệu quả động của chính quyền từ huyện đến cơ sở, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị xã hội.
Phát triển kinh tế theo hướng sản xuất hàng hoá, phù hợp với tiềm năng nội lực của huyện, thực hiện tốt quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng cơ bản và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng lâm - nông nghiệp. Tập trung đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng thị trấn, thị tứ, trung tâm cụm, các cụm công nghiệp làng nghề, có cơ chế kêu gọi đầu tư khuyến khích doanh nghiệp phát triển đặc biệt quan tâm chú trọng đến doanh nghiệp chế biến sản phẩm từ lâm - nông nghiệp; đẩy mạnh xã hội hoá nâng cao chất lượng, hiệu quả các hoạt động văn hoá, y tế, giáo dục và đào tạo thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội, tăng cường công tác bảo vệ tài nguyên môi trường, chủ động ứng phó với thiên tai, dịch bệnh, kết hợp tốt giữa phát triển kinh tế - xã hội với giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội.
Đại hội xác định các mục tiêu chủ yếu cho cho nhiệm kỳ 2010 - 2015:
Về kinh tế: Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 2011 - 2015 trên 13%; trong đó nông - lâm - thủy sản trên 8,0%; công nghiệp - xây dựng từ 25% trở lên; dịch vụ trên 23,5%. Phấn đấu đến năm 2015, tỷ trọng cơ cấu kinh tế là: lâm - nông nghiệp 47,94%, công nghiệp - xây dựng 27,66%; dịch vụ 24,4%; thu nhập bình quân đầu người/năm, đến năm 2015 là 15,6 triệu đồng. Tổng thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn tăng bình quân hằng năm là 15%. Sản lượng lương thực có hạt đến năm 2015 đạt 15.642 tấn. Giá trị hàng hóa và dịch vụ xuất khẩu năm 2015 đạt 2,4 triệu USD.
Về văn hoá - xã hội: Giảm tỉ lệ sinh hằng năm từ 0,7 - 0,9%, tỉ lệ hộ nghèo đến năm 2015 giảm xuống dưới 20%. Phổ cập tiểu học, phổ cập trung học cơ sở đúng độ tuổi; 40% trường mầm non đạt chuẩn quốc gia; 60% số trường đạt chuẩn quốc gia bậc tiểu học, 50% số trường đạt chuẩn quốc gia bậc THCS. Phấn đấu đến năm 2015 có 02 xã đạt chuẩn nông thôn mới. Hoàn thiện mạng lưới y tế từ huyện đến thôn, bản; 100% số xã, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế, phấn đấu đến năm 2015 giảm tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng xuống dưới 22,5%. Tỷ lệ phủ sóng truyền hình đạt 98% dân số và phát thanh đạt 100% dân. Gia đình đạt tiêu chuẩn văn hoá 80%; có 35% số dân luyện tập thể dục thể thao thường xuyên.
Về cơ sở hạ tầng: 100% xã có đường ô tô vào trung tâm được bốn mùa và đường giao thông đi lại được quanh năm, cứng hoá 50% đường giao thông nông thôn, tỷ lệ kênh mương nội đồng và kênh mương liên xã được kiên cố hóa bảo đảm năng lực tưới đạt 92%.
Về môi trường: Nâng cao chất lượng diện tích rừng hiện có theo hướng kinh tế và bền vững. Phấn đấu diện tích rừng che phủ đạt 78% vào năm 2015. Bảo vệ rừng và nguồn sinh thủy. Các cơ sở sản xuất mới xây dựng có công trình xử lý chất thải đảm bảo tiêu chuẩn môi trường, hoặc áp dụng công nghệ sạch, phấn đấu đến năm 2015, có 85% dân số trên địa bàn huyện được dùng nước hợp vệ sinh.
Về xây dựng Đảng: Hằng năm các tổ chức cơ sở Đảng đạt trong sạch vững mạnh đạt từ 80% trở lên, kết nạp 130 đảng viên mới, xây dựng Trung tâm Bồi dưỡng chính trị đạt chuẩn đến 2015 theo quy định của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy.
Đại hội đề ra các chương trình trọng tâm: Chương trình phát triển lâm nghiệp lấy cây luồng làm trọng tâm; Chương trình phát triển chăn nuôi đại gia súc theo hướng trang trại và gia trại phấn đấu đến năm 2015 toàn huyện có 35 trang trại, bình quân một hộ có từ 2 con trâu trở lên. Chương trình phát triển trung tâm huyện lỵ và trung tâm các cụm xã. Lập hồ sơ trình HĐND các cấp và Thủ tướng Chính phủ cho phép điều chỉnh, mở rộng địa giới hành chính theo quy hoạch chung đã được duyệt từ xã Đồng Lương đến xã Quang Hiến với diện tích 283 ha, tập trung phát triển trung tâm huyện lỵ, thị trấn Lang Chánh, thị trấn Yên Khương và 4 thị tứ tại các xã Trí Nang, Giao Thiện, Lâm Phú và Đồng Lương theo hướng văn minh, bền vững. Chương trình đào tạo nghề và xuất khẩu lao động: Tăng cường liên kết giữa các doanh nghiệp, các cơ sở đào tạo nghề, các trường kỹ thuật đào tạo lao động có tay nghề phù hợp với ngành nghề ở địa phương và đáp ứng nhu cầu xuất khẩu lao động trong thời gian tới.
Đại hội xác định các nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu:
Về kinh tế: Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế; nâng cao chất lượng hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế với tốc độ nhanh. Phát triển sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và xây dựng tăng trưởng nhanh, mạnh, bền vững mang tính đột phá. Phát triển các ngành dịch vụ xuất khẩu. Tiếp tục huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư; từng bước hoàn thiện kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội. Khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên, kết hợp với quan tâm bảo vệ môi trường để phát triển bền vững.
Tăng cường công tác xây dựng Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng và đảng viên, đổi mới phương thức lãnh đạo và lề lối làm việc của cấp ủy và tổ chức Đảng. Nâng cao hiệu quả công tác chính trị tư tưởng, tạo sự thống nhất cao trong toàn Đảng và sự đồng thuận trong nhân dân. Đẩy mạnh thực hiện cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh". Tập trung xây dựng và củng cố tổ chức cơ sở Đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên và tạo bước chuyển biến mới trong công tác cán bộ.
Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát của cấp ủy và ủy ban kiểm tra các cấp. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo và lề lối làm việc của cấp ủy và Ủy ban kiểm tra các cấp, góp phần xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh. Nâng cao chất lượng công tác dân vận; đổi mới nội dung phương pháp hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả chỉ đạo, điều hành của chính quyền; tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính và thực hiện quy chế dân chủ. Tiếp tục đổi mới nâng cao chất lượng của Hội đồng nhân dân các cấp. Đổi mới phương thức hoạt động của Ủy ban nhân dân các cấp. Đẩy mạnh công tác hành chính, nâng cao hiệu quả trong chỉ đạo điều hành.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành khóa XXI, nhiệm kỳ 2010 - 2015, gồm 35 đồng chí; đồng chí Phạm Đăng Quyền được bầu làm Bí thư Huyện ủy; đồng chí Lê Minh Hành được bầu làm Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy.
2. Kết quả lãnh đạo, thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXI
Trong nhiệm kỳ 2010 - 2015, được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh và sự giúp đỡ của các ban, ngành, đoàn thể trong tỉnh, Đảng bộ và nhân dân huyện Lang Chánh đã phát huy lợi thế, khắc phục khó khăn nỗ lực phấn đấu đạt được những thắng lợi khá toàn diện trên các lĩnh vực:
Về phát triển kinh tế
Kinh tế duy trì tốc độ tăng trưởng khá, tương đối toàn diện, năm sau cao hơn năm trước. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng, giảm dần tỷ trọng nông lâm nghiệp, thuỷ sản từ 57,6% năm 2010, còn 50,2% năm 2015; tỷ trọng công nghiệp - xây dựng tăng từ 25,2% lên 27,5%; dịch vụ tăng từ 17,2% lên 22,3%. Hình thành các vùng sản xuất nguyên liệu như: Mía, sắn, trồng cây cao su, cây lâm nghiệp, từng bước hình thành vùng chuyên canh các loại cây ngắn ngày có giá trị kinh tế cao. Cơ cấu lao động trong ngành nông nghiệp chiếm 65% lao động xã hội. Thu hút đầu tư, xây dựng kết cấu hạ tầng có bước đột phá. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn 2011 - 201 đạt 13,3%, cao hơn 5,9% so với giai đoạn 2006 - 2010, vượt chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội XXI đề ra. Thu nhập bình quân đầu người năm 2015 đạt 15,6 triệu đồng, tăng gấp 2,5 lần so với năm 2010.
Sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản theo hướng tăng năng
suất chất lượng, hiệu quả, xây dựng nông thôn mới đạt kết quả bước đầu.
Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 8,9%; tổng sản lượng lương thực có hạt năm 2015 ước 17.780 tấn, cao gấp 1,3 lần so với năm 2010.
Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp, thuỷ sản
giai đoạn 2011 - 2015 là 1.224,7 tỷ đồng. Lâm nghiệp, tập trung phát triển theo hướng lấy cây luồng làm trọng tâm, gắn với khoanh nuôi, tái sinh, bảo vệ 17.641 ha rừng tự nhiên, rừng phòng hộ; trồng mới hơn 5.000 ha rừng tập trung; độ che phủ rừng đạt 84,8%, tăng 6,1% so với năm 2010; trồng mới hơn 200 ha cây cao su đại điền và hơn 60 ha cao su tiểu điền. Diện tích rừng luồng đến năm 2015 đạt 11.537 ha, trong đó diện tích quy hoạch vùng luồng thâm canh 9.233 ha; đã phục tráng được hơn 380 ha; tiến hành trồng luồng xen cây gỗ lớn để nâng cao giá trị sản phẩm trên đơn vị diện tích đất canh tác; sản lượng khai thác từ luồng ngày càng tăng, góp phần nâng cao thu nhập cho người dân.
Chương trình phát triển chăn theo hướng trang trại và gia trại được triển khai hiệu quả; xuất hiện nhiều mô chăn nuôi trâu, bò, kết hợp với chăn nuôi lợn cỏ, gà đồi đem lại hiệu quả kinh tế cao. Đến năm 2015, tổng đàn gia súc (trâu, bò) đạt hơn 17.000 con. Chất lượng, tầm vóc, giá trị kinh tế của đàn trâu, bò được nâng lên, ý thức của người dân về chăn nuôi đã có nhiều thay đổi, hình thức chăn nuôi thả rông được hạn chế, hiện tượng trâu bò chết đói, chết rét vào mùa đông giảm. Công tác phòng chống dịch bệnh, tiêm phòng vắc xin cho gia súc đã được tăng cường.
Về thủy sản có bước phát triển khá, diện tích năm 2015 đạt 51 ha, tăng 10,8%; sản lượng năm 2015 đạt 121 tấn, tăng 92,6% so với năm 2010, từng bước đầu tư mở rộng mô hình nuôi cá hồi, cá tầm thương phẩm mang lại giá trị kinh tế cao.
Chương trình xây dựng nông thôn mới bước đầu đạt kết quả tích cực. Hoàn thành đưa vào quản lý quy hoạch xây dựng nông thôn mới theo quy định; huy động được hơn 494 tỷ đồng, trong đó vốn huy động nhân dân đóng góp 8,5 tỷ đồng, hiến 53.571m
2
đất; lồng ghép với các chương trình mục tiêu khác, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện đã chỉ đạo Ủy ban nhân dân thực hiện đầu tư làm mới, nâng cấp, sửa chữa các công trình điện, đường giao thông, trường học, trạm y tế, các công trình thuỷ lợi, nước sinh hoạt, trung tâm văn hoá, trụ sở xã nên đã làm thay đổi diện mạo nông thôn miền núi; làng, bản ngày càng khang trang, sạch đẹp. Các sản phẩm hàng hóa giao thương, buôn bán thuận lợi hơn, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được nâng lên, an ninh nông thôn được giữ vững; đến năm 2015, huyện đã có 1 xã đạt 16 tiêu chí chuẩn nông thôn mới, 7 xã đạt từ 7 - 9 tiêu chí, 2 xã đạt 5 tiêu chí; bình quân cả huyện đạt 8,5 tiêu chí, thôn bản đạt 6,7 tiêu chí; thôn Giáng xã Quang Hiến được công nhận thôn đạt chuẩn nông thôn mới.
Sản xuất công nghiệp - xây dựng đạt tốc độ tăng trưởng khá,
giá trị sản xuất giai đoạn 2011 - 2015 đạt 584,6 tỷ đồng; bình quân hằng năm tăng 21,3%; năm 2015 (theo giá cố định 1994) đạt 161,6 tỷ đồng, gấp 2,6 lần so với năm 2010; các sản phẩm chủ yếu là khai thác khoáng sản, vật liệu xây dựng, chế biến lâm sản và một số mặt hàng thiết yếu khác đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân.
Lĩnh vực xây dựng phát triển khá toàn diện, đóng góp quan trọng cho tăng trưởng. Giá trị sản xuất giai đoạn 2011 - 2015 (theo giá cố định 1994) đạt 453,2 tỷ đồng; giá trị năm 2015 đạt 122,2 tỷ đồng, cao gấp 2,5 lần năm 2010. Xây dựng kết cấu hạ tầng được quan tâm, nhiều chương trình dự án triển khai thực hiện. Đến năm 2015, có 80% số xã đã được nhựa hóa, bê tông hóa đến trung tâm; 20% số xã còn lại có đường cấp phối đi lại được bốn mùa; xây dựng nhiều công trình và đưa vào sử dụng đường điện bản Phá xã Tam Văn, điện chiếu sáng nội thị, các tuyến đường, trường học, trạm xá, Trung tâm hội nghị của huyện, trung tâm văn hóa, công sở xã, chợ, bến xe; kênh mương, hồ đập được kiên cố hóa, tu sửa nâng cấp; các dự án trọng điểm như: đường từ bản Ngàm xã Yên Thắng đi bản Méng xã Yên Khương, cầu Bãi Gỗ xã Giao An được khởi công xây dựng.
Chương trình phát triển Trung tâm huyện lỵ và trung tâm các cụm xã đã được triển khai đồng bộ. Tỷ lệ đô thị hoá đến năm 2010 đạt 9,9%. Lập quy hoạch mở rộng thị trấn Lang Chánh về phía xã Đồng Lương; cắm mốc quy hoạch khu hành chính, từng bước lập quy hoạch xây dựng chi tiết để đưa vào quản lý. Hệ thống điện chiếu sáng, đường nội thị, chợ, bến xe, đường và cầu sắt bản Lưỡi, Trung tâm Hội nghị góp phần làm đẹp cảnh quan thị trấn. Phát triển Trung tâm cụm xã thông qua xây dựng các trụ sở, nhà văn hoá, quy hoạch khu dân cư tập trung; xây dựng chợ Yên Thắng, công bố Quy hoạch đô thị dọc theo tuyến đường phía Tây của tỉnh Thanh Hoá. Quy hoạch phát triển các làng nghề truyền thống, khu thương mại, dịch vụ, vận tải theo chương trình quy hoạch xây dựng nông thôn mới.
Các ngành dịch vụ phát triển cả về quy mô và loại hình,
tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm 24,1%. Giá trị giai đoạn 2011 - 2015 (theo giá cố định 1994) đạt 465,2 tỷ đồng. Năm 2015, giá trị sản xuất đạt 125,4 tỷ đồng, cao gấp 1,3 lần so với năm 2010. Các dịch vụ đa dạng cả về quy mô, cơ cấu và chất lượng. Thương mại phát triển theo hướng văn minh, hiện đại; siêu thị, chợ đầu mối được đầu tư xây dựng, đưa vào sử dụng đã đáp ứng phần lớn nhu cầu mua sắm của người dân. Tỷ lệ dùng điện thoại đạt 45 thuê bao/100 dân, Internet đạt 1,3 thuê bao/100 dân. Hoạt động vận tải ngày càng đáp ứng tốt nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội; dịch vụ du lịch đang được hình thành; dịch vụ ngân hàng phát triển mạnh, tổng dư nợ tín dụng năm 2015 là 353,2 tỷ đồng, gấp 2,3 lần năm 2010.
Công tác quản lý tài chính - ngân sách đạt được những kết quả đáng khích lệ,
bình quân thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn tăng 15%/năm so với kế hoạch tỉnh giao. Năm 2015 ước thu ngân sách trên địa bàn đạt 150% kế hoạch. Chi ngân sách được quản lý chặt chẽ, đáp ứng kịp thời kinh phí cho hoạt động ở tất cả các lĩnh vực trên địa bàn toàn huyện.
Tăng cường thu hút đầu tư, huy động vốn cho phát triển đạt khá; nhiều dự án được khởi công; kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được tăng cường. Tổng vốn huy động cho đầu tư phát triển giai đoạn 2011 - 2015 đạt 1.659 tỷ đồng, vượt 13% so với Nghị quyết đề ra; trong đó vốn đầu tư Nhà nước chiếm 74,5%, vốn trong nhân dân chiếm 25,5%. Năm 2010, trên địa bàn huyện có 11 hợp tác xã nông nghiệp, 2 hợp tác xã dịch vụ, 17 doanh nghiệp tư nhân, 2 doanh nghiệp Nhà nước và gần 1.300 cơ sở sản xuất, kinh doanh cá thể.
Công tác bảo vệ tài nguyên, môi trường được chú trọng,
đã hoàn thành lập quy hoạch sử dụng đất giai đoạn 2011 - 2020, đo vẽ bản đồ số và cấp lại giấy chứng nhận sử dụng đất theo số liệu đo đạc mới đạt 89,8%; việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi, đền bù giải phóng mặt bằng được thực hiện đúng pháp luật; quản lý Nhà nước về tài nguyên khoáng sản được tăng cường, nhất là khai thác mỏ. Công tác bảo vệ môi trường có chuyển biến tích cực; các biện pháp ứng phó với biến đổi khí hậu được triển khai đồng bộ, hạn chế tối đa những thiệt hại do thiên tai gây ra.
Trong nhiệm kỳ 2010 - 2015, hoạt động khoa học - công nghệ có nhiều tiến bộ,
áp dụng thành công các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới phục vụ phát triển kinh tế - xã hội; một số cây trồng vật nuôi có năng suất, chất lượng cao được đưa vào thử nghiệm, sản xuất. Đề tài khoa học nuôi cá hồi, cá tầm nước lạnh; dự án nuôi lợn cỏ, vịt bầu tại bản Năng Cát, xã Trí Nang phát huy hiệu quả và được nhân rộng. Các đề tài khoa học mới được triển khai trên các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh.
Văn hóa - xã hội
Về giáo dục
, chất lượng giáo dục có nhiều chuyển biến tích cực góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực; mạng lưới trường lớp, cơ sở vật chất, trang thiết bị được quan tâm đầu tư; tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn các cấp được nâng lên, chế độ chính sách cho giáo viên, học sinh được thực hiện đầy đủ. Số lượng học sinh huy động vào các cấp học luôn đạt tỷ lệ cao; phổ cập giáo dục Mầm non cho trẻ 5 tuổi hoàn thành trước 1 năm theo kế hoạch, phổ cập giáo dục Tiểu học đúng độ tuổi và phổ cập trung học cơ sở được giữ vững. Trong nhiệm kỳ 2010 - 2015, xây dựng mới 10 trường đạt chuẩn quốc gia đưa tổng số trường chuẩn quốc gia lên 17 trường, đạt tỷ lệ 43,5%; phong trào khuyến học, khuyến tài được đẩy mạnh, các xã, thị trấn đều có Trung tâm học tập cộng đồng, đáp ứng nhu cầu học tập cho nhân dân.
Về Y tế:
Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có nhiều tiến bộ, đặc biệt công tác khám chữa bệnh; toàn huyện có 41 bác sỹ, đạt tỷ lệ 8,5 bác sỹ/1 vạn dân, 100% trạm y tế có bác sỹ; cơ sở vật chất y tế được tăng cường, 100% số làng, bản có tủ thuốc và cán bộ y tế. Công tác y tế dự phòng được chú trọng. Trong nhiệm kỳ 2010 - 2015 đã xây dựng được 4 xã đạt chuẩn tiêu chí Quốc gia về y tế, đạt tỷ lệ 36,3%. Các chỉ tiêu về dân số - kế hoạch hoá gia đình và sức khoẻ sinh sản được cải thiện, trong đó tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ dưới 5 tuổi năm 2010 là 29,5% giảm còn 21,6% năm 2015; tỷ lệ tăng dân số tự nhiên ở mức 1%.
Văn hóa - thông tin, thể dục - thể thao phát triển đa dạng, bản sắc văn hoá các dân tộc được giữ gìn, đời sống tinh thần của nhân dân được nâng lên. Các lễ hội truyền thống, văn hoá dân gian được bảo tồn, khôi phục và phát huy. Di tích lịch sử văn hoá Chùa Mèo được trùng tu, tôn tạo; hoàn thành quy hoạch chi tiết khu du lịch sinh thái bản Năng Cát - thác Ma Hao xã Trí Nang thuộc quy hoạch tuyến du lịch số 5 của tỉnh. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” gắn với phong trào “Chung tay xây dựng nông thôn mới” tiếp tục được đẩy mạnh; 100% cơ quan, đơn vị đã phát động khai trương xây dựng đơn vị văn hoá; phát động xây dựng 6 xã theo tiêu chí đạt chuẩn “văn hoá nông thôn mới
”
; có 56% cơ quan, đơn vị đạt đơn vị văn hoá; 70,3% đạt danh hiệu gia đình văn hoá. Phong trào rèn luyện sức khỏe theo gương Bác Hồ được nhân dân tham gia tích cực, có 33,5% gia đình tham gia thể thao, hơn 200 câu lạc bộ thể dục, thể thao hoạt động thường xuyên. Hệ thống truyền thanh, truyền hình được củng cố, đổi mới về nội dung, tăng thời lượng, mở rộng phạm vi phát sóng đến vùng sâu, vùng xa; tỷ lệ phủ sóng truyền hình đạt 85%, phát thanh đạt 100%.
Chương trình đào tạo nghề và xuất khẩu lao động được triển khai sâu rộng đến từng thôn bản; đẩy mạnh công tác tuyên truyền về đào tạo nghề và xuất khẩu lao động để nhân dân hiểu được tầm quan trọng của tay nghề trong lao động sản xuất, tạo thu nhập và lợi ích của việc xuất khẩu lao động đối với công tác xóa đói giảm nghèo trên địa bàn huyện. Kết quả giai đoạn 2010 - 2015 đã nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo của huyện từ 17,8% lên 26,8%; 432 người đi xuất khẩu lao động mang lại nguồn thu ngoại tệ đáng kể.
Chính sách an sinh xã hội
được triển khai thực hiện tốt; đời sống của nhân dân các dân tộc trong huyện không ngừng được cải thiện. Các chính sách đối với người có công, đối tượng bảo trợ xã hội được thực hiện đầy đủ, kịp thời; phong trào “
Đền ơn đáp nghĩa
” được đẩy mạnh. Các chương trình 30a, 134, 135, Chương trình Mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới, Nghị quyết 09-NQ/TU của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về giảm nghèo nhanh và bền vững được triển khai có hiệu quả. Tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân hằng năm là 5,47% (từ 57,02% năm 2010 xuống còn 29,68% năm 2014 và năm 2015 giảm xuống 22,64%) vượt mục tiêu Nghị quyết đề ra.
Công tác giải quyết việc làm, đào tạo nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn cho lao động được đẩy mạnh. Trong 5 năm (2010 - 2015) có 4.349 người lao động được đào tạo, dạy nghề, giải quyết việc làm cho 432 người đi xuất khẩu lao động.
Thực hiện Nghị quyết 09-NQ/TU của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giảm nghèo nhanh và bền vững ở các huyện miền núi Thanh Hóa đến năm 2020”, Ban Thường vụ Huyện uỷ đã tổ chức quán triệt, triển khai đến các Đảng bộ, chi bộ trực thuộc và làm thay đổi nhận thức của cán bộ nhân dân trong công tác giảm nghèo, áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, phát triển cây, con truyền thống có giá trị kinh tế cao. thông qua đó đã chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, giúp hộ nghèo tự vươn lên thoát nghèo bền vững. Tổ chức kết nghĩa, xây dựng kế hoạch phối hợp; sử dụng các nguồn vốn hỗ trợ giảm nghèo có hiệu quả của huyện Nông Cống, Triệu Sơn.
Về quốc phòng - an ninh
Lĩnh vực quốc phòng luôn được các cấp ủy Đảng, chính quyền quan tâm. Lực lượng quân sự duy trì nghiêm chế độ trực sẵn sàng chiến đấu. Tổ chức diễn tập, ra quân huấn luyện đạt kết quả cao. Thường xuyên theo dõi, nắm chắc tình hình, chủ động xử lý các tình huống xảy ra. Công tác tuyên truyền, giáo dục kiến thức quốc phòng - an ninh, tuyển chọn công dân nhập ngũ, quản lý quân dự bị động viên, dân quân tự vệ và công tác hậu phương quân đội được triển khai sâu rộng. Thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, biên phòng toàn dân được giữ vững.
An ninh, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo; tiếp tục triển khai có hiệu quả Chỉ thị số 10 và Đề án 375 của Ủy ban nhân dân tỉnh về đẩy mạnh phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc, xây dựng khu dân cư an toàn an ninh trật tự. Chủ động đấu tranh với các loại tội phạm, điều tra đưa ra xét xử kịp thời, đúng quy định của pháp luật; giải quyết có hiệu quả các vấn đề phức tạp, không để xảy ra điểm nóng; tội phạm được kiềm chế, trật tự an toàn giao thông được quan tâm; trong nhiều năm qua trên địa bàn huyện không có các vụ án lớn xảy ra; đặc biệt xã Yên Khương là xã biên giới không có tình trạng buôn bán, tàng trữ trái phép chất ma tuý và tái trồng cây thuốc phiện.
Ngoài ra, lực lượng vũ trang đã chủ động xây dựng phương án, kịp thời ứng phó với các tình huống thiên tai, bão lụt và phòng cháy, chữa cháy rừng. Công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật được đẩy mạnh, góp phần nâng cao nhận thức về pháp luật cho người dân. Công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo được các cấp ủy Đảng, chính quyền quan tâm; tăng cường đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí. Khiếu kiện, thắc mắc của nhân dân được giải quyết dứt điểm ngay từ cơ sở. Quan hệ đối ngoại với huyện Sầm Tớ, tỉnh Hủa Phăn, nước CHDCND Lào được mở rộng và đi vào chiều sâu, góp phần ổn định tình hình hai bên biên giới, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
Xây dựng Đảng và hệ thống chính trị
Công tác giáo dục chính trị tư tưởng:
Ban Chấp hành Đảng bộ Lang Chánh đã triển khai và thực hiện Chỉ thị 03 - CT/TW của Bộ Chính trị và Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) của Ban Chấp hành Trung ương bước đầu đạt được nhiều kết quả
.
Ban Thường vụ Huyện ủy đã tập trung chỉ đạo triển khai đến toàn thể cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về chủ đề học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh theo từng năm, qua đó đã nâng cao về nhận thức và hành động của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong lao động sản xuất; đã triển khai trên 100 lớp học tập theo Chỉ thị 03-CT/TW, của Bộ Chính trị cho hàng nghìn lượt cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên và nhân dân tham gia; thông qua việc học tập và làm theo tấm gương của Bác đã xuất hiện nhiều tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến xuất sắc được huyện, tỉnh biểu dương khen thưởng.
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI), Đảng bộ huyện đã tiến hành đánh giá kiểm điểm tự phê bình và phê bình trên cơ sở đó từng tập thể, cá nhân xây dựng kế hoạch khắc phục sửa chữa những hạn chế, khuyết điểm; rà soát các quy chế, quy định làm việc nhằm quản lý cán bộ, đảng viên; lựa chọn một số vấn đề quan trọng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI) để tập trung chỉ đạo. Nâng cao chất lượng tự phê bình và phê bình, khắc phục cơ bản tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Tăng cường điều động, luân chuyển cán bộ; thực hiện quy trình bổ nhiệm có số dư, khắc phục tư tưởng khép kín, cục bộ trong công tác cán bộ.
Công tác chính trị tư tưởng có sự đổi mới cả về nội dung, phương pháp, hình thức tiến hành mang lại hiệu quả thiết thực. Cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể luôn thường xuyên đổi mới, chú trọng nâng cao hiệu quả, quán triệt, triển khai thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, của tỉnh; công tác tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, truyền thống yêu nước được tăng cường, qua đó tạo sự chuyển biến về nhận thức, khơi dậy lòng tự hào, tinh thần yêu quê hương, đất nước, lao động sáng tạo của cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Cán bộ, đảng viên và nhân dân có tư tưởng ổn định, tin tưởng, phấn khởi, đồng thuận với sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng, quản lý điều hành của chính quyền các cấp. Hệ thống Tuyên giáo cơ sở hoạt động ngày càng đi vào nền nếp; hoạt động báo cáo viên, tuyên truyền miệng, bản tin nội bộ được duy trì thường xuyên.
Công tác tổ chức cán bộ:
Xác định rõ công tác cán bộ là vấn đề then chốt trong công tác xây dựng Đảng; các cấp ủy Đảng đã có nhiều đổi mới về phương thức lãnh đạo quản lý cán bộ, quan tâm đến chất lượng, tiêu chuẩn của đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý từ huyện đến cơ sở; rà soát bổ sung quy hoạch, trên cơ sở đó cử đi đào tạo bồi dưỡng chuyên môn, lý luận chính trị, từng bước đạt chuẩn cán bộ theo quy định. Công tác đề bạt, bổ nhiệm luôn được thực hiện nghiêm túc, đúng quy trình theo quy định tại Nghị quyết số 42-NQ/TW của Bộ Chính trị, hướng dẫn số 15-HD/TW và Quy định số 02-QĐ/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Nghị quyết số 04-NQ/TU của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh. Trong nhiệm kỳ 2010 - 2015, đã bầu và chỉ định bổ sung 6 đồng chí ủy viên Ban Thường vụ; 4 uỷ viên Ban Chấp hành Huyện ủy; bổ nhiệm mới, bổ nhiệm lại 117 đồng chí; luân chuyển từ huyện về xã 6 đồng chí, từ xã lên huyện 2 đồng chí.
Công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng được quan tâm; bình quân hàng năm có 77% chi bộ đạt trong sạch vững mạnh, không có tổ chức cơ sở Đảng yếu kém; trong nhiệm kỳ 2010 - 2015, đã kết nạp được 703 đảng viên mới, tỷ lệ đảng viên nông thôn, đảng viên nữ, người dân tộc thiểu số ngày càng tăng; đến 2015, tất cả các thôn bản đều có chi bộ Đảng, không còn chi bộ sinh hoạt ghép.
Công tác bảo vệ chính trị nội bộ được các cấp uỷ, tổ chức Đảng quan tâm chỉ đạo, tổ chức thực hiện đúng quy định và đạt hiệu quả; góp phần xây dựng, bảo vệ Đảng trong sạch, vững mạnh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ mới. Chỉ đạo thực hiện nghiêm túc Quyết định 875 - QĐ/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy “về ban hành quy định một số vấn đề về quản lý cán bộ, đảng viên”; Quyết định số 1089-QĐ/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy “về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp”; quy định về cấp uỷ tham dự sinh hoạt với chi bộ nông thôn.
Công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật Đảng
trong nhiệm kỳ được tăng cường theo hướng hiệu lực, hiệu quả. Luôn coi trọng việc lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện toàn diện các nhiệm vụ kiểm tra, giám sát theo quy định của Điều lệ Đảng, có trọng tâm, trọng điểm. Kiểm tra, giám sát việc tổ chức thực hiện các chủ trương, đường lối, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và cấp ủy các cấp trong việc chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ; quy chế làm việc; quy định về những điều đảng viên không được làm; việc phòng, chống tham nhũng, lãng phí; việc khắc phục sửa chữa khuyết điểm sau kiểm điểm Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI). Trong nhiệm kỳ 2010 - 2015, cấp ủy đã tiến hành được 75 cuộc kiểm tra giám sát, thi hành kỷ luật 31 đảng viên; nhận và giải quyết 50 đơn thư khiếu nại, tố cáo.
Công tác dân vận tiếp tục được tăng cường, quyền làm chủ của nhân dân ngày càng phát huy.
Xây dựng và thực hiện quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị, công tác xây dựng cơ sở và thực hiện quy chế dân chủ. Tuyên truyền vận động nhân dân phát huy truyền thống tương thân tương ái giúp nhau xóa đói giảm nghèo, xây dựng nếp sống văn hoá ở khu dân cư. Ban Chấp hành Đảng bộ thường xuyên nắm vững tình hình, tâm tư nguyện vọng và giải quyết những vấn đề xã hội để định hướng, vận động quần chúng nhân dân thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước về công tác vận động quần chúng, về vấn đề dân tộc, tôn giáo, triển khai có hiệu quả phong trào “
dân vận khéo
” trong xây dựng nông thôn mới.
Công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí được quan tâm, chỉ đạo đạt kết quả bước đầu. Cấp uỷ Đảng, chính quyền đã triển khai thực hiện nghiêm túc các chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phòng chống tham nhũng, lãng phí; đề cao trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan, đơn vị trong thực hiện phòng chống tham nhũng, lãng phí; quan tâm đến công tác tuyên truyền và các giải pháp phòng ngừa, công khai minh bạch các chủ trương, chính sách, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; tăng cường quản lý kinh tế, ngân sách Nhà nước, tài sản công và các lĩnh vực dễ phát sinh tham nhũng, lãng phí. Chỉ đạo nghiêm túc việc kê khai tài sản của cán bộ, công chức. Tăng cường thanh tra, kiểm tra, phát hiện, xử lý nghiêm các hành vi tham nhũng, lãng phí, đã có tác dụng răn đe, giáo dục chung, bước đầu hạn chế được hành vi tham nhũng, tình trạng lãng phí từng bước được kiềm chế. Công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo được quan tâm thực hiện theo quy định.
Hoạt động của Hội đồng nhân dân:
Các cấp có nhiều đổi mới; công tác quản lý Nhà nước, hiệu lực hiệu quả điều hành của Ủy ban nhân dân các cấp được nâng lên. Đại biểu Hội đồng nhân dân đã thể hiện rõ tinh thần trách nhiệm, gắn bó với cử tri, kịp thời phản ánh và đề nghị các cấp có thẩm quyền giải quyết nguyện vọng, kiến nghị chính đáng của cử tri. Vai trò của Hội đồng nhân dân các cấp được phát huy trong việc quyết định các vấn đề về kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh của địa phương. Tăng cường giám sát hoạt động của Ủy ban nhân dân và các phòng chuyên môn, nhất là việc thực hiện các chương trình, dự án kinh tế xã hội và giải quyết các kiến nghị của cử tri, những vấn đề nổi cộm, bức xúc nhân dân trong huyện quan tâm. Chất lượng các kỳ họp của Hội đồng nhân dân được nâng lên, các nghị quyết, quyết định của Hội đồng nhân dân ban hành sát với thực tiễn đảm bảo đúng pháp luật và đi vào cuộc sống. Hoạt động giám sát của các ban Hội đồng nhân dân thông qua việc thẩm tra báo cáo, tờ trình của Ủy ban nhân dân, tạo điều kiện để đại biểu Hội đồng nhân dân phát huy dân chủ, trí tuệ tham gia đóng góp vào các giải pháp thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện; việc tiếp xúc cử tri, chất vấn và trả lời chất vấn đã có nhiều đổi mới, đáp ứng được tâm tư, nguyện vọng chính đáng của nhân dân, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
Hoạt động của Ủy ban nhân dân
các cấp có nhiều đổi mới, chức năng, nhiệm vụ được phân định rõ hơn, hạn chế sự chồng chéo, bỏ sót nhiệm vụ; trách nhiệm của người đứng đầu, sự chủ động trong chỉ đạo điều hành, quản lý được nâng lên, hoạt động linh hoạt hiệu quả hơn; kịp thời chỉ đạo tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy mạnh phát triển sản xuất, kinh doanh, tăng cường xúc tiến đầu tư; nâng cao chất lượng các hoạt động văn hoá xã hội, đảm bảo an sinh xã hội, quốc phòng an ninh. Kỷ cương, kỷ luật hành chính được tăng cường, hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước trên các lĩnh vực được nâng lên. Tiếp tục triển khai có hiệu quả cơ chế một cửa, tạo điều kiện cho tổ chức, công dân tiếp cận và giải quyết công việc nhanh gọn, tỷ lệ hài lòng của người dân được nâng cao.
Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị xã hội:
Đã có nhiều chuyển biến cả về tổ chức phong trào và phương pháp hoạt động, góp phần quan trọng trong việc thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước ở cơ sở. Các hoạt động tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, thực hiện quyền dân chủ của nhân dân được mở rộng và phát huy; một số hội đặc thù tuy mới được thành lập nhưng đã có nhiều hoạt động thiết thực góp phần thúc đẩy phong trào xây dựng đời sống văn hóa, đảm bảo quốc phòng, an ninh, xây dựng khu dân cư an toàn làm chủ và khu dân cư có đời sống văn hóa tốt. Kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của nhân dân để kiến nghị với cấp ủy Đảng, chính quyền giải quyết những bức xúc của người dân. Số lượng hội viên đăng ký thoát nghèo, các hoạt động nhân đạo, từ thiện, chia khó ngày càng thu hút được các ngành, các cấp, các tầng lớp nhân dân tham gia. Tỷ lệ tập hợp đoàn viên, hội viên vào sinh hoạt trong tổ chức ngày càng cao, Hội Phụ nữ (74,0%), Hội Cựu chiến binh (94,3%), Hội Nông dân (91,0%), Đoàn Thanh niên (65%), Liên đoàn Lao động (100%).
Bên cạnh những kết quả đạt được, trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ huyện Lang Chánh, nhiệm kỳ 2010 - 2015 vẫn còn bộc lộ những tồn tại, hạn chế:
Việc huy động nguồn lực đầu tư, tốc độ tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế; Chuyển đổi cơ cấu giống, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của sản phẩm nông lâm, nghiệp thấp, chưa tương xứng với tiềm năng; chỉ tiêu về tổng đàn gia súc và trang trại đạt thấp so với Nghị quyết đề ra. Người dân vẫn còn tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào sự đầu tư hỗ trợ sản xuất của Nhà nước. Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp quy mô nhỏ, sản phẩm chủ yếu là phục vụ tiêu dùng trong huyện, chưa có sức cạnh tranh, chưa khôi phục được làng nghề truyền thống gắn với phát triển nghề mới. Một số chỉ tiêu mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XX đề ra chưa đạt, Lang Chánh chưa thoát khỏi huyện nghèo, kém phát triển.
Về văn hóa - xã hội, chất lượng giáo dục mũi nhọn còn thấp, học sinh đạt giải học sinh giỏi cấp tỉnh, cấp quốc gia, đậu thủ khoa vào các trường đại học chưa nhiều; công tác dạy nghề chưa đáp ứng được mục tiêu giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người dân. Tỷ lệ hộ nghèo tuy giảm nhưng vẫn còn cao, ý thức vươn lên thoát nghèo của một bộ phận chưa cao. Các tệ nạn xã hội tuy đã được kiềm chế nhưng vẫn tiềm ẩn các vấn đề phức tạp.
Việc triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI) và Chỉ thị 03 -CT/TW của Bộ Chính trị chưa tạo được chuyển biến mạnh mẽ, tác dụng ngăn chặn, phòng ngừa các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống ở một số ít cán bộ, đảng viên chưa cao.
Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội từ huyện đến cơ sở có lúc, có nơi còn mang tính hình thức, chưa thể hiện tốt vai trò tham gia giải quyết các vấn đề bức xúc, nổi cộm ở cơ sở; triển khai thực hiện chức năng giám sát, phản biện xã hội còn lúng túng.
III. ĐẢNG BỘ LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI THEO HƯỚNG NHANH VÀ BỀN VỮNG (2015 - 2019)
1. Đại hội Đảng bộ huyện Lang Chánh lần thứ XXII
Thực hiện Chỉ thị 36-CT/TW, ngày 30 - 5 - 2014, của Bộ Chính trị về Đại hội Đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng và tiến tới Đại hội Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lần thứ XVII. Từ ngày 04 đến ngày 06 tháng 8 năm 2015, Đảng bộ huyện Lang Chánh tổ chức Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ XXII, nhiệm kỳ 2015 - 2020, với chủ đề: “Đoàn kết, đổi mới, tư duy, sáng tạo, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng bộ, quyết tâm phấn đấu sớm đưa Lang Chánh ra khỏi huyện nghèo”. Dự Đại hội có 157 đại biểu đại diện cho hơn 3.000 đảng viên thuộc 33 Đảng bộ, chi bộ trong toàn huyện.
Đại hội đã thông qua báo cáo của Ban Chấp hành Đảng bộ khoá XX trình Đại hội gồm: Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khoá XX; Báo cáo kiêm điểm của Ban Chấp hành khóa XX và các Báo cáo tổng hợp ý kiến đóng góp vào dự thảo bác cáo chính trị của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh khoá XVI trình Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII; Báo cáo đóng góp ý kiến dự thảo các văn kiện của Ban Chấp hành Trung ương khóa X trình Đại hội Đảng khoá XI.
Đại hội đã thông qua Báo cáo của Ban Chấp hành Đảng bộ khóa XXI trình Đại hội khóa XXII; Báo cáo kiểm điểm Ban Chấp hành khóa XXI; báo cáo tổng hợp ý kiến đóng góp vào Dự thảo báo cáo chính trị Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XVII, trình Đại hội đại biểu tỉnh khóa XVIII; Báo cáo đóng góp ý kiến dự thảo các văn kiện khóa XI trình đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII.
Đại hội Đảng bộ huyện Lang Chánh đã đưa ra phương hướng chung cho nhiệm kỳ 2015 - 2020:
Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ, đoàn kết, đổi mới tư duy, năng động, sáng tạo, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, thoát nghèo bền vững
.
Phát huy tiềm năng, thế mạnh, tranh thủ thời cơ, vượt qua khó khăn thách thức; tiếp tục kêu gọi đầu tư, huy động tối đa mọi nguồn lực; phát triển lâm nghiệp gắn với chế biến; thực hiện tốt công tác giảm nghèo gắn với xây dựng nông thôn mới; tăng cường đào tạo nghề, xuất khẩu lao động, giải quyết việc làm, các hoạt động văn hóa xã hội, du lịch; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước; đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể quần chúng, các hội nghề nghiệp. Bảo vệ tài nguyên, môi trường chủ động ứng phó với thiên tai, dịch bệnh, kết hợp tốt giữa phát triển kinh tế - xã hội với giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo quốc phòng - an ninh. Với phương châm hành động
:
Đoàn kết - Đổi mới - Năng động - Sáng tạo
Đại hội tiếp tục xác định thực hiện 4 chương trình trọng tâm sớm đưa Lang Chánh ra khỏi huyện nghèo là: Chương trình phát triển chăn nuôi gia súc theo hướng trang trại và gia trại nông hộ, chương trình phát triển kinh tế lâm nghiệp gắn với chế biến, chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững gắn với xây dựng nông thôn mới, chương trình đào tạo nghề, giải quyết việc làm và xuất khẩu lao động. Đại hội đã đề ra mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp cho nhiệm kỳ 2015 - 2020 và thống nhất xây dựng, phát triển tiềm năng, thế mạnh tranh thủ thời cơ vượt qua thách thức, tiếp tục kêu gọi đầu tư, huy động tối đa mọi nguồn lực, phát triển lâm nghiệp gắn với chế biến, thực hiện tốt công tác giảm nghèo gắn với xây dựng nông thôn mới, tăng cường đào tạo nghề, xuất khẩu lao động, giải quyết việc làm, triển khai chương trình, thực hiện chỉ đạo trọng tâm nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ ngay từ đầu nhiệm kỳ.
Với tinh thần tập trung dân chủ, trí tuệ, trách nhiệm, đoàn kết, thống nhất cao, Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa XXII, nhiệm kỳ 2015 - 2020 gồm 35 đồng chí, đảm bảo tiêu chuẩn, cơ cấu và số lượng theo đúng tinh thần Chỉ thị số 36- CT/TW của Bộ Chính trị về Đại hội Đảng các cấp và Quy chế bầu cử trong Đảng. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Lang Chánh khóa XXII đã họp phiên thứ nhất bầu Ban Thường vụ gồm 11 đồng chí; bầu Bí thư và Phó Bí thư, bầu Ủy ban Kiểm tra Huyện ủy, bầu Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra. Đồng chí Lê Tiến Lam được bầu giữ chức vụ Bí thư Huyện ủy; các đồng chí Nguyễn Xuân Hồng và Phạm Đăng Lực được bầu giữ chức vụ Phó Bí thư Huyện ủy. Đại hội đã bầu đoàn đại biểu đi dự Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII gồm 9 đại biểu chính thức và 01 đại biểu dự khuyết.
Phát huy thành quả đạt được của Đại hội, Đảng bộ huyện Lang Chánh khóa XXII quyết tâm đưa Nghị quyết Đại hội thực sự đi vào cuộc sống. Đại hội yêu cầu các cấp ủy và tổ chức Đảng cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức tốt việc nghiên cứu, quán triệt đầy đủ, sâu sắc Nghị quyết Đại hội đến từng cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân trong huyện; trên cơ sở Nghị quyết Đại hội, cần tập trung chỉ đạo xây dựng các chương trình, kế hoạch thực hiện cụ thể, phù hợp với các quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội đã được phê duyệt vào tình hình thực tế của địa phương. Trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội, Ban Thường vụ đã xác định nhiệm vụ trọng tâm để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, tập trung nguồn lực tổ chức thực hiện, tránh dàn trải; thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, đánh giá kết quả thực hiện để có giải pháp thúc đẩy kịp thời, năng động và sáng tạo. Tiếp tục phát huy dân chủ và khối đại đoàn kết toàn dân, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho nhân dân, đảm bảo quốc phòng và an ninh, tạo ra sự bứt phá mới về các mặt kinh tế - xã hội trong nhiệm kỳ mới năm 2015 - 2020, đáp ứng sự mong đợi và hy vọng của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong huyện.
2. Lãnh đạo, triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXII
Sau những năm đầu thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXII, được sự quan tâm chỉ đạo, hỗ trợ của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh, sự hỗ trợ của các sở, ban, ngành cấp tỉnh, sự nỗ lực cố gắng của các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân các dân tộc huyện Lang Chánh, tình hình kinh tế - xã hội của huyện tiếp tục ổn định và có bước phát triển khá, hoàn thành 26/27 chỉ tiêu, nhiệm vụ đề ra; quốc phòng - an ninh được đảm bảo; công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị chuyển biến tiến bộ.
Về phát triển kinh tế
Kinh tế tiếp tục tăng trưởng, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, nhiều chỉ tiêu đạt và vượt mục tiêu Nghị quyết đề ra. Tốc độ tăng giá trị sản xuất bình quân giai đoạn 2016 - 2018 đạt 15,9% (mục tiêu Nghị quyết là 15,5%), tổng giá trị sản xuất trên địa bàn huyện năm 2018 đạt 2.167 tỷ đồng (đạt 117% so với cùng kỳ). Cơ cấu chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng nông, lâm nghiệp và thủy sản từ 47,1% xuống 44,8%; các ngành dịch vụ tăng từ 17% lên 17,8%. Thu nhập bình quân đầu người năm 2018 là 25,5 triệu đồng, đạt 100% so với kế hoạch, tăng 10,4% so với năm 2017.
Sản xuất nông, lâm, thủy sản phát triển ổn định: Giá trị sản xuất toàn ngành đạt 866,8 tỷ đồng, đạt 108,6% so với cùng kỳ. Về trồng trọt, tổng diện tích gieo trồng đạt 7.201,8 ha, tăng 4,3% so với kế hoạch; tổng sản lượng lương thực cây có hạt ước đạt 17.517 tấn, đạt 97,3% kế hoạch, năng suất lúa năm 2018 đạt 48,4 tạ/ha đạt 98% so với kế hoạch; diện tích cây chất bột lấy củ là 1.525 ha đạt 103,8% so với kế hoạch; diện tích mía 428,2 ha, đạt 109,8% so với kế hoạch; cây nghệ dược liệu 109 ha. Giá trị chăn nuôi đạt 165,9 tỷ đồng, tăng 16,3% so với cùng kỳ; sản lượng thủy sản đạt 150 tấn, tăng 14,6% so với cùng kỳ.
Giá trị sản xuất lâm nghiệp đạt 518,1 tỷ đồng, tăng 9,9% so với cùng kỳ. Tiếp tục phục tráng năm thứ hai 500 ha luồng, phục tráng mới 350 ha, nâng diện tích phục tráng lên 1.350 ha; khoanh nuôi, tái sinh thêm 1.000 ha, nâng diện tích khoanh nuôi, tái sinh lên 3.000 ha.
Chương trình xây dựng nông thôn mới đạt được hiệu quả đáng khích lệ, cùng với nguồn kinh phí đầu tư của Trung ương, của tỉnh, huyện đã tập trung huy động các nguồn vốn đầu tư xây dựng, nâng cấp, sửa chữa các công trình giao thông, thủy lợi, trường học, trạm y tế, công sở xã, Trung tâm văn hóa xã. Trong quá trình tổ chức thực hiện nhiều xã đã phát huy tốt quy chế dân chủ, công khai minh bạch trong sử dụng vốn nhân dân đóng góp, từ đó nhân dân tự hiến đất, tài sản trên đất cho xây dựng các công trình hạ tầng, góp ngày công lao động để kiên cố đường giao thông, tạo thành phong trào thi đua ở các làng, bản. Từ năm 2015 - 2018, trên địa bàn huyện đã có 14 thôn, bản đạt chuẩn nông thôn mới (chiếm 17,9%); xã Giao An được Ủy ban nhân dân tỉnh công nhận là xã nông thôn mới; các xã còn lại dự kiến hoàn thành từ 2 tiêu chí trở lên, đưa mức tiêu chí bình quân toàn huyện lên 11 tiêu chí.
Sản xuất công nghiệp - xây dựng
: Giá trị sản xuất toàn ngành năm 2018 đạt 914,9 tỷ đồng, tăng 28,3% so với cùng kỳ; từng bước khôi phục các nghề truyền thống và xây dựng thương hiệu kẹo nhãn Lang Chánh. Giá trị xuất khẩu hàng hóa là 924.356 USD, đạt 184,9% kế hoạch (tập trung vào các mặt hàng gỗ xẻ, ván bóc, giấy đế, vàng mã, dăm keo tươi)
.
Giá trị xây dựng đạt 688,2 tỷ đồng, tăng 18,9% so với cùng kỳ…
Các ngành dịch vụ có bước tăng trưởng khá
: Giá trị thương mại, dịch vụ ước đạt 385,6 tỷ đồng, tăng 24% so cùng kỳ. Hàng hóa đảm bảo lưu thông, giá cả ổn định, dịch vụ viễn thông, vận tải và các dịch vụ khác đáp ứng tốt cho nhu cầu đời sống của nhân dân.
Tài chính - Ngân hàng
: Tổng thu ngân sách nhà nước năm 2018 đạt trên 453 tỷ đồng, trong đó thu ngân sách nhà nước trên địa bàn huyện hơn 21 tỷ đồng, đạt 182% so với dự toán giao. Tổng vốn huy động tín dụng lũy kế trên địa bàn đạt 182 tỷ đồng. Tổng dư nợ tín dụng lũy kế hơn 705 tỷ đồng.
Công tác tài nguyên, môi trường được tăng cường
: Ban Thường vụ Huyện uỷ đã ban hành Chỉ thị số 11- CT/HU ngày 20 - 7 - 2017 về tăng cường quản lý, sử dụng đất trên địa bàn huyện; chỉ đạo kiểm tra, giám sát về môi trường đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh, khai thác khoáng sản; chỉ đạo giải quyết dứt điểm 10 điểm ô nhiễm môi trường do rác thải bừa bãi ở các xã, thị trấn; phát hiện, xử phạt, chấn chỉnh, khắc phục kịp thời sự cố xả thải gây ô nhiễm ra sông Âm tại cụm công nghiệp Bãi Bùi. Ủy ban nhân dân huyện đã tập trung chỉ đạo công tác giải phóng mặt bằng, đảm bảo mặt bằng thi công cho 12 dự án năm 2018. Tiến hành lập 15 dự án đưa vào đấu giá quyền sử dụng đất tại 6 xã với tổng diện tích 3,89 ha.
Công tác vận động xúc tiến đầu tư, huy động vốn cho đầu tư phát triển được đẩy mạnh: Ban Thường vụ Huyện uỷ đã ban hành Chỉ thị số 10- CT/HU ngày 20 - 7 - 2017 về việc tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo đảm bảo hoàn thành chỉ tiêu phát triển doanh nghiệp năm 2018. Ủy ban nhân dân huyện đã thành lập Tổ vận động thành lập doanh nghiệp; phối hợp với Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam chi nhánh Thanh Hóa tổ chức hướng dẫn thành lập doanh nghiệp cho hơn 150 hộ kinh doanh cá thể; thành lập mới được 20 doanh nghiệp, đạt 100% kế hoạch năm. Tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội ước đạt 900 tỷ đồng, đạt 100% so với kế hoạch, tăng 28,5% so với cùng kỳ.
Về văn hóa - xã hội
Công tác giáo dục và đào tạo thường xuyên được quan tâm đầu tư: Kết thúc năm học 2017 - 2018, tỷ lệ trẻ mẫu giáo 5 tuổi hoàn thành chương trình giáo dục mầm non đạt 100%; hoàn thành và phát triển năng lực ở cấp học Tiểu học đạt 100%; tỷ lệ tốt nghiệp THCS đạt 99,9%; tỷ lệ tốt nghiệp THPT đạt 97,1% ; có 12 giáo viên đạt giải cấp tỉnh, 73 giáo viên đạt giải cấp huyện; 493 học sinh đạt giải các kỳ thi cấp huyện, tham gia cấp tỉnh đạt 90 giải. Sáp nhập 8 trường Tiểu học và Trung học cơ sở; toàn huyện có 22 trường đạt chuẩn quốc gia đạt tỷ lệ 66,7%. Hoạt động của các Trung tâm học tập cộng đồng xã, thị trấn có nhiều chuyển biến tích cực; công tác khuyến học, khuyến tài đã được các cấp, các ngành và nhân dân trong huyện quan tâm.
Công tác Y tế tập trung nâng cao chất lượng khám chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe cho nhân dân: Chủ động phòng chống dịch bệnh, triển khai đầy đủ các chương trình quốc gia về y tế, không có dịch lớn xảy ra. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Quyết định 2449/QĐ-UBND ngày 18 - 7 - 2014 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh về khám, chữa bệnh cho người nghèo. Công nhận 2 xã Yên Thắng và Tân Phúc đạt chuẩn quốc gia về y tế giai đoạn 1, nâng số xã đạt chuẩn quốc gia về y tế lên 9/11 xã, thị trấn. Công tác phòng chống dịch bệnh sau mưa lũ được tăng cường, trong năm không xảy ra mất an toàn thực phẩm trên địa bàn huyện; tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng cân nặng/tuổi còn 17%, giảm 0,5% so với cùng kỳ; suy dinh dưỡng chiều cao/tuổi còn 23,6%, giảm 0,6% so với cùng kỳ.
Văn hóa, thông tin, thể thao, du lịch, truyền thanh, truyền hình thường xuyên được quan tâm: Tăng cường quản lý các hoạt động văn hóa, thiết chế văn hóa ở cơ sở; năm 2018 trên địa bàn huyện xây dựng mới thêm 10 nhà văn hoá, đạt 100% kế hoạch. Tổ chức thành công giao lưu văn hóa hữu nghị giữa hai huyện Lang Chánh - Sầm Tớ (Cộng hòa DCND Lào); phối hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch khôi phục Lễ hội Chá Mùn tại xã Yên Thắng. Về du lịch, từng bước đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, tổ chức tập huấn, nâng cao chất lượng dịch vụ tại các điểm du lịch thác Ma Hao, bản Năng Cát, thác Hón Lối và Chùa Mèo; tăng cường quảng bá, thu hút đầu tư, khách du lịch; năm 2018 các điểm du lịch của huyện đã đón hơn 35 nghìn lượt khách, tăng hơn 30% so với cùng kỳ.
Công tác từ thiện, cứu trợ nhân đạo luôn được quan tâm
: Các đối tượng có hoàn cảnh đặc khó khăn, gia đình chính sách, nạn nhân chất độc da cam, nạn nhân thiên tai, hoả hoạn, người nghèo mắc bệnh được hỗ trợ kịp thời. Huyện đã tiếp nhận, phân phối 2,3 tỷ đồng tiền mặt và gần 2.000 phần quà trị giá 600 triệu đồng của hơn 40 đoàn ủng hộ người dân chịu thiệt hại của thiên tai.
Công tác xoá đói, giảm nghèo, chế độ chính sách xã hội, xuất khẩu lao động và giải quyết việc làm được thực hiện nghiêm túc, đầy đủ, kịp thời chính xác theo quy định của nhà nước: Tổ chức thăm hỏi tặng quà cho các đối tượng người có công, nạn nhân chất độc hóa học, thương binh, bệnh binh nhân dịp các ngày lễ lớn của đất nước; thăm hỏi, động viên, trợ cấp đột xuất kịp thời cho các đối tượng gặp khó khăn, thiên tai, hỏa hoạn. Nghị quyết 30a và chương trình, dự án của Chính phủ đang được triển khai thực hiện, cùng với hệ thống điện, giao thông, thủy lợi được cải thiện, phát huy hiệu quả giúp đời sống nhân dân bớt khó khăn, góp phần không nhỏ xoá đói, giảm nghèo, phát triển kinh tế, xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh trên địa bàn.
Chính sách dân tộc miền núi được triển khai thực hiện tốt: Thường xuyên theo dõi, nắm bắt tình hình, triển khai thực hiện đầy đủ các chính sách dân tộc miền núi, nhất là các chính sách thuộc Chương trình 135 giai đoạn 2107 - 2020, đảm bảo đời sống, an sinh xã hội. Tình hình tôn giáo trên địa bàn huyện tương đối ổn định, đại đa số bà con giáo dân sống theo phương châm "Tốt đời, đẹp đạo", thực hiện và chấp hành tốt chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước về tôn giáo; ngăn chặn kịp thời việc truyền đạo trái phép trên địa bàn huyện.
Thực hiện Nghị quyết 09-NQ/TU của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, Ủy ban nhân dân huyện đã tập trung triển khai nghị quyết vào cuộc sống thông qua việc lồng ghép các chương trình dự án, hướng dẫn sản xuất, kinh doanh, qua đó chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu cây trồng, vật nuôi, tạo công ăn việc làm; giúp đỡ hộ nghèo trong tìm hướng làm ăn để thoát nghèo bền vững; tăng cường đến cơ sở nắm tình hình để có biện pháp lãnh chỉ đạo giảm nghèo hiệu quả. Đến cuối năm 2018, tỉ lệ hộ nghèo toàn huyện giảm xuống còn 16,4%; tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đạt 96,5%; tỷ lệ lao động nông nghiệp trong tổng lao động là 59,5%, đạt 100% kế hoạch. Công tác xuất khẩu lao động, giải quyết việc làm được quan tâm chỉ đạo, đến nay đã có 97 người đi xuất khẩu lao động đạt tỷ lệ trên 64,7% so với kế hoạch; số người được giải quyết việc làm mới là 750 người, đạt 100% so với kế hoạch.
Về quốc phòng - an ninh
Lực lượng vũ trang duy trì nghiêm chế độ trực sẵn sàng chiến đấu, nắm chắc tình hình, không để các vụ việc phức tạp, bị động, bất ngờ xảy ra. Chỉ đạo 100% đầu mối cơ sở ra quân huấn luyện đảm bảo quân số, đúng, đủ nội dung thời gian quy định; triển khai tốt kế hoạch, tổ chức huấn luyện sẳn sàng chiến đấu. Hoàn thành diễn tập phòng thủ cấp xã tại Lâm Phú, Tam Văn, Tân Phúc; hoàn thành công tác tuyển quân các năm. Tình hình nội, ngoại biên diễn ra bình thường, không có dấu hiệu xuất nhập biên trái phép; thường xuyên phối hợp tổ chức tuần tra đảm bảo an ninh biên giới.
Tăng cường tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân cảnh giác, xây dựng thế trận an ninh nhân dân vững mạnh, không để xảy ra các vụ việc nghiêm trọng, tội phạm có tổ chức, băng nhóm tội phạm hoạt động theo kiểu xã hội đen. Công tác quản lý người nước ngoài đến thăm và làm việc đúng quy định; tội phạm hình sự, kinh tế, ma túy và tệ nạn xã hội được kiềm chế; tội phạm trộm cắp tài sản, các vụ án đặc biệt nghiêm trọng giảm 50% số vụ so với cùng kỳ.
Công tác đối ngoại được tăng cường, góp phần xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị cùng phát triển. Tăng cường mở rộng quan hệ với các huyện trong và ngoài tỉnh. Tổ chức thành công hội nghị đánh giá việc hợp tác phát triển kinh tế, xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh giai đoạn 2018 - 2020 với huyện Sầm Tớ, tỉnh Hủa Phăn, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào.
Về xây dựng đảng, chính quyền, đoàn thể
Công tác chính trị tư tưởng:
Làm tốt công tác định hướng giáo dục chính trị tư tưởng, triển khai đầy đủ các chỉ thị, nghị quyết mới của Đảng, pháp luật Nhà nước cũng như tuyên truyền các tin tức nổi bật về kinh tế, văn hoá, chính trị cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân trên địa bàn huyện. Tổ chức Lễ kỷ niệm 71 năm Bác Hồ lần đầu tiên về thăm Thanh Hóa; sơ kết ba năm thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị, biểu dương công dân gương mẫu, tập thể kiểu mẫu; tổ chức thành công buổi tọa đàm giao lưu “Cán bộ và nhân dân huyện Lang Chánh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”; tổ chức tốt Cuộc thi "Tìm hiểu quan hệ lịch sử đặc biệt Việt Nam - Lào"; tổ chức tốt Lễ hội Chùa Mèo; phục dựng và tổ chức Lễ hội Chá Mùn của dân tộc Thái Lang Chánh tại xã Yên Thắng. Xây dựng và thực hiện tốt Kế hoạch kiểm tra chính trị, tư tưởng, chất lượng giảng dạy Giáo dục công dân của các nhà trường năm 2018; xây dựng và phát hành 2.160 cuốn Bản tin nội bộ phục vụ cho sinh hoạt chi bộ cơ sở. Công tác biên soạn, tái bản bổ sung cuốn Lịch sử Đảng bộ huyện giai đoạn 1949 - 2019 và biên soạn lịch sử địa phương đang được thực hiện theo đúng kế hoạch của Ban Thường vụ Huyện ủy.
Công tác tổ chức cán bộ:
Chỉ đạo các đảng bộ, chi bộ cơ sở thực hiện nhiệm vụ công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở; quản lý công tác cán bộ, đội ngũ đảng viên, chế độ chính sách đối với cán bộ cơ quan Đảng, đoàn thể của huyện theo quy định. Chỉ đạo tổ chức Đại hội chi bộ trực thuộc Đảng ủy cơ sở nhiệm kỳ 2017 - 2020 theo đúng kế hoạch đề ra. Hướng dẫn cho các đảng bộ, chi bộ thực hiện đánh giá phân loại tổ chức cơ sở đảng và đảng viên năm 2018; đánh giá phân loại, kiểm điểm cán bộ lãnh đạo quản lý và công tác thi đua khen thưởng năm 2018. Xây dựng các công văn, báo cáo, kế hoạch, đề án, chương trình hành động… về công tác cán bộ; bố trí, sắp xếp, hiệp y, làm quy trình bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn nhiệm, điều động, luân chuyển một số chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý trong huyện. Tổng hợp, thẩm định và phê duyệt công tác rà soát, bổ sung quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý nhiệm kỳ 2015 - 2020; quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý nhiệm kỳ 2020 - 2025, định hướng 2025 - 2030 đúng thời gian quy định. Làm tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng, trong đó đăng ký đào tạo cao cấp lý luận chính trị cho 04 đồng chí, hoàn thiện kiến thức cao cấp lý luận chính trị cho 02 đ/c; phối hợp với các Đảng bộ, chi bộ trao tặng Huy hiệu Đảng cho 168 đồng chí.
Công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật Đảng:
Chủ động triển khai toàn diện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát theo quy định của Điều lệ Đảng và Chương trình kiểm tra, giám sát năm 2018. Ra quyết định kiểm tra tại các đơn vị gồm Đảng ủy xã Quang Hiến, Đồng Lương, Thị Trấn, Tân Phúc; ra quyết định kiểm tra xây dựng nông thôn mới tại Đảng ủy xã Giao An; kiểm tra việc chi trả chế độ mai táng phí tại Phòng lao động thương binh xã hội Huyện; kiểm tra việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Nghị quyết 30a của Chính phủ về thực hiện các chương trình hỗ trợ sản xuất cho nông dân về vật nuôi, cây trồng năm 2015 - 2016; kiểm tra theo Điều 30 tại Đảng ủy xã Tam Văn. Năm 2018 đã thi hành kỷ luật 12 đảng viên (cảnh cáo 03, khiển trách 09).
Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo các cấp, các ngành tiếp tục triển khai thực hiện các quy định của Đảng, Nhà nước về phòng chống tham nhũng, gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI, XII). Tiếp tục thực hiện nghiêm Chỉ thị số 33-CT/TW, ngày 03/01/2014 của bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc kê khai và kiểm soát việc kê khai tài sản; Chỉ thị 35 - CT/TW, ngày 26/5/2014 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo; Chỉ thị số 50-CT/TW, ngày 07 - 12 - 2015 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phát hiện, xử lý vụ việc, vụ án tham nhũng... Nhìn chung, công tác phòng, chống tham nhũng đã có những chuyển biến tích cực. Các cấp, các ngành, cơ quan, đơn vị đã bám sát yêu cầu, nhiệm vụ chính trị, thực hiện tốt việc công khai, minh bạch trong quản lý hoạt động và cung cấp thông tin định kỳ; kê khai, minh bạch về tài sản thu nhập của các đối tượng thuộc diện kê khai… Công tác thanh tra, kiểm tra, điều tra, truy tố, xét xử được đẩy mạnh.
Công tác dân vận:
Luôn nắm bắt tình hình tư tưởng, nguyện vọng của nhân dân; chỉ đạo hoạt động tôn giáo, dân tộc và chính sách dân tộc trên địa bàn huyện đúng đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Tổ chức lễ ký kết thực hiện chương trình phối hợp công tác dân vận với Ủy ban nhân dân huyện huyện và các ngành lực lượng vũ trang, Hạt Kiểm lâm giai đoạn 2017 - 2020. Phối hợp chỉ đạo 100% xã, thị trấn tổ chức thành công diễn đàn “Công an lắng nghe ý kiến nhân dân”, Hội nghị đối thoại về công tác lâm nghiệp và hoạt động của Kiểm lâm ở cơ sở năm 2018. Mở lớp tập huấn công tác dân vận và thực hiện Quy chế dân chủ năm 2018 cho 123 học viên ở cơ sở. Tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt một số nghị quyết, kế hoạch, quy chế, đề án của tỉnh về công tác dân vận; đôn đốc thực hiện có hiệu quả phong trào thi đua “Dân vận khéo”, đặc biệt là trong xây dựng nông thôn mới; kiện toàn, bổ sung và thực hiện quy chế dân chủ.
Hoạt động của Hội đồng nhân dân:
Tổ chức thành công các kỳ họp (khóa XIX), quyết nghị một số cơ chế, chính sách để phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh của huyện; tập trung đôn đốc, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các nghị quyết đã thông qua tại các kỳ họp. Hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu HĐND huyện tiếp tục đổi mới, dành nhiều thời gian để tiếp nhận ý kiến đóng góp, phản ánh của cử tri; các ý kiến, kiến nghị của cử tri được tổng hợp đầy đủ và kịp thời gửi đến cơ quan chức năng để xem xét, giải quyết.
Hoạt động của Uỷ ban nhân dân:
Tập trung chỉ đạo các cơ quan, phòng, ban ngành, các đơn vị đẩy mạnh cải cách hành chính, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, tạo thuận lợi cho phát triển sản xuất kinh doanh, đẩy nhanh tiến độ các dự án đầu tư, tăng cường huy động các nguồn vốn cho đầu tư phát triển; tăng cường quản lý chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm; tập trung chỉ đạo và kịp thời có chính sách hỗ trợ các xã khôi phục cơ sở hạ tầng, khôi phục sản xuất vụ đông bị thiệt hại do lũ lụt; quan tâm chỉ đạo thực hiện đầy đủ, kịp thời các chính sách an sinh xã hội; nâng cao chất lượng các hoạt động văn hoá - xã hội, đẩy mạnh công tác giảm nghèo, giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập, đời sống nhân dân.
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội:
Tuyên truyền, vận động đoàn viên, hội viên tham gia thực hiện các nhiệm vụ chính trị của huyện và của cơ sở; tích cực tham gia xây dựng nông thôn mới, bảo vệ môi trường, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, an ninh trật tự, an sinh xã hội. Đặc biệt, đã tích cực vận động các tổ chức, cá nhân quyên góp, hỗ trợ nhân dân khắc phục hậu quả do lũ lụt gây ra, sớm ổn định sản xuất và đời sống. Quan tâm đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao hiệu quả hoạt động; đẩy mạnh phát triển đoàn viên, hội viên; kiện toàn, củng cố các cơ sở yếu kém; tăng cường các hoạt động giám sát và phản biện xã hội; quan tâm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên và nhân dân; đẩy mạnh các hoạt động hỗ trợ đoàn viên, hội viên về vốn, vật tư, kỹ thuật... để phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập, giảm nghèo bền vững. Chỉ đạo thành công Đại hội Mặt trận Tổ quốc các cấp nhiệm kỳ 2019 - 2024, Đại hội Hội Nông dân huyện nhiệm kỳ 2018 - 2023.
Bên cạnh những kết quả tích cực và thành tựu, vẫn còn những hạn chế, yếu kém. Cụ thể là: Việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tái cơ cấu cây trồng trong nông nghiệp còn chậm, hiệu quả còn thấp. Biến đổi khí hậu, thời tiết khắc nghiệt, giá cả một số mặt hàng nông sản giảm sâu, thiên tai gây ảnh hưởng lớn đến đời sống nhân dân; lũ quét cuốn trôi 10 nhà, làm hư hỏng 43 nhà; hơn 200 ha hoa màu, đất canh tác bị vùi lấp; các công trình giao thông hư hỏng nặng, tổng thiệt hại ước tính trên 100 tỷ đồng.
Việc phục tráng rừng luồng ở các xã Giao An, Đồng Lương còn chậm; thâm canh rừng luồng mới ở mức triển khai tập huấn, tuyên truyền; cây luồng vẫn bị khai thác quá mức nên chất lượng, giá trị không cao. Các mô hình sản xuất nói chung, trong đó mô hình sản xuất rau an toàn tại bản Năng Cát và Chiềng Ban chưa duy trì được thường xuyên. Việc thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn còn ít, quy mô nhỏ, hoạt động của một số doanh nghiệp vẫn còn khó khăn, do thiếu việc làm và đầu ra của sản phẩm.
Công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tham mưu, đề xuất của một số cấp uỷ, chính quyền còn hạn chế, thiếu tính chủ động, quyết liệt trong giải quyết công việc. Một số tập thể, cá nhân còn vi phạm về chế độ chính sách. Công tác xây dựng Nông thôn mới ở các xã còn thiếu quyết liệt, trông chờ vào hỗ trợ của huyện, chính quyền xã còn thiếu chủ động; chất lượng xây dựng nông thôn mới còn thấp.
Các tệ nạn xã hội tuy có được kiềm chế nhưng vẫn tiềm ẩn các vấn đề phức tạp; tình hình buôn bán, sử dụng chất ma tuý, số đề, đánh bạc, mất an toàn giao thông, đánh người gây thương tích vẫn còn xảy ra; nguyên nhân chủ yếu là do ý thức của người dân, nhưng một phần là do công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật của chính quyền các xã, thị trấn còn hạn chế. Xuất khẩu lao động không đạt kế hoạch, trong khi tình trạng người lao động vượt biên đi lao động trái phép ở Trung Quốc vẫn còn xảy ra (năm 2018 còn khoảng 43 công dân chưa trở về địa phương).
Một số cấp ủy chưa thực sự quan tâm việc xây dựng tổ chức cơ sở Đảng và đảng viên. Việc chỉ đạo tổ chức thực hiện nghị quyết, chỉ thị của cấp trên còn hình thức, chưa thực sự hiệu quả, nhất là việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII) và Chỉ thị số 05 của Bộ Chính trị, trong đó còn không ít cán bộ, đảng viên chưa thực sự gương mẫu, kể cả cán bộ lãnh đạo, quản lý. Công tác kiểm điểm, đánh giá xếp loại tổ chức cơ sở Đảng và đảng viên còn nể nang, tinh thần tự phê bình và phê bình chưa cao; chất lượng sinh hoạt chi bộ cơ quan, chi bộ cơ sở còn hạn chế.
Như vậy, sau gần 15 dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện, sự nghiệp đẩy mạnh thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nông nghiệp nông thôn ở Lang Chánh đã đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử: đó là phát triển kinh tế - xã hội thoát nghèo theo hướng bền vững, kinh tế tăng trưởng nhanh, cơ sở vật chất được tăng cường, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện, thu nhập bình quân theo đầu người ngày một tăng, Lang Chánh đã hình thành một số ngành kinh tế mũi nhọn góp phần nâng cao đời sống vật chất, văn hóa của đồng bào các dân tộc trên địa bàn. Đây chính là những tiền đề vững chắc để Đảng bộ và nhân dân huyện Lang Chánh vượt qua khó khăn, thách thức hoàn thành thắng lợi công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa, sớm đưa Lang Chánh trở thành huyện giàu đẹp, văn minh.
Phần 9: Sẽ tiếp tục được cập nhật
Ngọc Thỏa Trung Tâm Văn hóa TT-TT&DL huyện