Quá trình vận động và thành lập chính quyền cách mạng huyện Lang Chánh
Sau khi hoàn thành việc đánh chiếm ba nước Đông Dương, thực dân Pháp đẩy mạnh khai thác thuộc địa, vơ vét tài nguyên đem về chính quốc. Chính sách áp bức bóc lột của thực dân Pháp đã làm cho xã hội Việt Nam bị phân hóa sâu sắc, tính chất xã hội biến đổi - từ xã hội phong kiến trở thành xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp trở nên gay gắt. Trong đó, mâu thuẫn giữa dân tộc ta với thực dân Pháp và tay sai ngày càng quyết liệt.
Giải quyết mâu thuẫn mở đường cho xã hội phát triển, nhân dân Việt Nam đã liên tục tổ chức các phong trào đấu tranh theo nhiều khuynh hướng khác nhau như khởi nghĩa của Trương Công Định, Thủ Khoa Huân, phong trào Cần Vương, phong trào Đông Du, Đông Kinh nghĩa thục, Duy Tân; các cuộc khởi nghĩa do Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Thái Học… lãnh đạo. Các cuộc khởi nghĩa, phong trào đấu tranh đó vô cùng anh dũng, nhưng đã bị thực dân Pháp đàn áp tàn bạo và cuối cùng đều thất bại. Những thất bại của các cuộc khởi nghĩa, các phong trào trên là chưa tìm được con đường cứu nước phản ánh đúng nhu cầu phát triển của thời đại và xã hội Việt Nam. Cách mạng nước ta đứng trước sự khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước.
Đúc kết những bài học xương máu, nhiều thanh niên yêu nước Việt Nam ra nước ngoài tìm đường cứu nước. Nguyễn Ái Quốc, người con ưu tú của dân tộc Việt Nam đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, đến với Cách mạng Tháng Mười Nga tìm ra con đường cứu nước kiểu mới. Đó là con đường kết hợp cách mạng giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội theo con đường cách mạng vô sản. Người đã dày công chuẩn bị điều kiện về chính trị, tư tưởng, tổ chức tiến tới thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Từ năm 1923, Lê Hữu Lập một thanh niên yêu nước, được Đinh Chương Dương - một chí sĩ yêu nước giác ngộ, vào giữa năm 1924, anh được đưa sang Quảng Châu (Trung Quốc) tham gia tổ chức Tâm Tâm xã.
Tháng 11 năm 1924, Nguyễn Ái Quốc từ Liên Xô về Trung Quốc. Tháng 6 năm 1925, Người giác ngộ cho một số thanh niên ưu tú trong Tâm Tâm xã và lập ra Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, mở lớp bồi dưỡng lý luận cách mạng, đào tạo cán bộ cốt cán cho phong trào đấu tranh trong nước. Lê Hữu Lập là một trong những thanh niên ưu tú được Nguyễn Ái Quốc lựa chọn và là người Thanh Hóa đầu tiên được kết nạp vào Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Cuối năm 1925, sau lớp huấn luyện ở Quảng Châu, đồng chí Lê Hữu Lập được cử về nước hoạt động.
Tháng 5 năm 1926, tại số nhà 26 phố Hàng Than, thị xã Thanh Hóa (nay là thành phố Thanh Hóa), đồng chí Lê Hữu Lập thành lập Hội đọc sách báo. Từ thị xã Thanh Hóa, Hội đọc sách báo nhanh chóng phát triển về các huyện Đông Sơn, Hậu Lộc, Thiệu Hóa, Thọ Xuân, Vĩnh Lộc, Hoằng Hóa, Nông Cống, Quảng Xương…
Tháng 4 năm 1927, tại số nhà 26 phố Hàng Than, thị xã Thanh Hóa, Hội nghị đại biểu của 11 tiểu tổ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở thị xã và các phủ, huyện quyết định thành lập Tỉnh bộ Thanh Hóa. Dưới sự chủ trì của đồng chí Lê Hữu Lập, Hội nghị thống nhất chủ trương và biện pháp đẩy mạnh công tác tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin và con đường cách mạng cứu nước của Nguyễn Ái Quốc; phát triển hội viên và tổ chức Hội; tiếp tục mở rộng các phong trào yêu nước; cổ vũ các phong trào đấu tranh chống áp bức bóc lột của công, nông và nhân dân lao động. Hội nghị cử ra Ban Chấp hành Tỉnh bộ lâm thời gồm 3 ủy viên1, đồng chí Lê Hữu Lập được cử làm Bí thư.
Tháng 5 năm 1929, Tỉnh bộ Thanh niên Thanh Hóa tiếp nhận chủ trương giải tán tổ chức Thanh niên, thành lập Đảng Cộng sản. Ban Chấp hành Tỉnh bộ Thanh niên triệu tập Hội nghị đại biểu các tiểu tổ Thanh niên trong tỉnh. Dưới sự chủ trì của Bí thư Tỉnh bộ Hoàng Khắc Trung, Hội nghị đã thống nhất với chủ trương giải tán tổ chức Thanh niên, thành lập Đảng Cộng sản. Hội nghị dành nhiều thời gian bàn biện pháp và phân công hội viên đi “Vô sản hóa” tại các đồn điền, nhà máy, hầm mỏ…
Trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng trong nước và sự phân hóa của các tổ chức cộng sản, ngày 03 - 02 - 1930, đồng chí Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản tổ chức Hội nghị tại Hương Cảng (Trung Quốc) thống nhất các tổ chức Cộng sản trong nước thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thực hiện Nghị quyết của Đảng về phát triển cơ sở Đảng trong nước, Xứ ủy Bắc Kỳ đã giao trách nhiệm cho đồng chí Lê Công Thanh (Xứ ủy viên, Bí thư Tỉnh ủy Hà Nam) chỉ đạo thành lập Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa. Đồng chí Lê Công Thanh giao nhiệm vụ cho đồng chí Nguyễn Doãn Chấp (đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, đang dạy học ở Hà Nam) về Thanh Hóa chắp nối liên lạc với tổ chức Việt Nam Cách mạng Thanh niên lựa chọn quần chúng ưu tú vào Đảng Cộng sản và thành lập Đảng bộ Thanh Hóa. Cuối tháng 6 năm 1930, đồng chí Nguyễn Doãn Chấp đã thành lập Chi bộ Cộng sản Hàm Hạ (huyện Đông Sơn), đầu tháng 7 năm 1930 thành lập Chi bộ Cộng sản Thiệu Hóa, trung tuần tháng 7 năm 1930 thành lập Chi bộ Cộng sản Thọ Xuân. Trên cơ sở ba chi bộ đầu tiên, ngày 29 - 7 - 1930, tại làng Yên Trường (xã Thọ Lập, huyện Thọ Xuân), đồng chí Nguyễn Doãn Chấp tổ chức Hội nghị thành lập Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa, Hội nghị cử đồng chí Lê Thế Long làm Bí thư. Sự kiện này đánh dấu bước ngoặt trong tiến trình phát triển của phong trào cách mạng tỉnh Thanh Hóa.
Ngay sau khi ra đời, Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa đã tích cực xây dựng cơ sở trong quần chúng và phát triển đảng viên; tích cực chăm lo xây dựng các tổ chức quần chúng như Công hội, Nông hội, Thanh niên, Phụ nữ… đến tháng 10 năm 1930, toàn Đảng bộ có 5 chi bộ với tổng số 57 đảng viên.
Đến cuối năm 1930, phát hiện ra cơ sở hoạt động của Đảng bộ, chính quyền thực dân mở chiến dịch truy lùng khủng bố, nhiều đồng chí cốt cán bị bắt, cầm tù. Phong trào cách mạng trong tỉnh tạm thời gặp khó khăn về tổ chức, lãnh đạo.
Trước tình hình Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa bị tổn thất nghiêm trọng, sau một thời gian nỗ lực khôi phục tổ chức và phong trào, ngày 01 - 01 - 1931, Xứ ủy Trung Kỳ chỉ đạo thành lập Tỉnh ủy lâm thời Thanh Hóa tại làng Hồ Thượng (xã Tân Dân, huyện Tĩnh Gia), cử đồng chí Ngô Đức Mậu làm Bí thư Tỉnh ủy. Đảng bộ do Xứ ủy Trung Kỳ chỉ đạo thành lập hoạt động đến giữa năm 1931 bị khủng bố tan rã.
Về mặt tổ chức, Đảng bộ Thanh Hóa bị tan rã, nhưng mục đích, lý tưởng của Đảng đã thấm sâu vào trái tim, khối óc của quần chúng lao khổ; vì vậy, quần chúng cách mạng đã tìm cách khôi phục lại Đảng bộ và tự nguyện trở thành đảng viên chiến đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng thắng lợi. Nhờ đó, tháng 3 năm 1934, Đảng bộ Thanh Hóa được phục hồi và liên tục tổ chức các phong trào cách mạng sôi nổi, rộng khắp, đó là: Cao trào đấu tranh đòi dân sinh dân chủ chống chủ nghĩa phát xít và nguy cơ chiến tranh thế giới thời kỳ 1936 - 1939.
Tháng 9 năm 1939, chiến tranh thế giới lần thứ hai chính thức bùng nổ, nước Pháp tham chiến, chính phủ phản động lên nắm quyền, thi hành chính sách phát xít đối với nước Pháp và các nước thuộc địa. Chúng điên cuồng tấn công vào Đảng Cộng sản và các tổ chức quần chúng yêu nước, tước bỏ mọi quyền tự do, dân chủ mà nhân dân ta giành được trong phong trào dân chủ (1936 - 1939)… Phong trào cách mạng cả nước nói chung, Thanh Hóa nói riêng bị địch khủng bố, hầu hết các tổ chức cộng sản và đảng viên bị đánh phá và bị bắt. Cuối năm 1940, dưới sự chỉ đạo của Xứ ủy Trung Kỳ, Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa được khôi phục và chuyển hướng đấu tranh theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương tháng 11 năm 1939, chuyển từ Mặt trận Dân chủ sang xây dựng Mặt trận Phản đế cứu quốc; nhờ đó, phong trào cách mạng ngày càng phát triển sâu rộng trong tỉnh, nhiều làng xã trong các phủ, huyện: Thọ Xuân, Thiệu Hóa, Yên Định, Vĩnh Lộc, Thạch Thành, Hà Trung… đã thành lập Hội phản đế cứu quốc và đội tự vệ cứu quốc.
Tháng 9 năm 1940, phát xít Nhật xâm lược nước ta, nhân dân ta chịu cảnh “Một cổ hai tròng”. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Thanh Hóa đã vùng lên đấu tranh chống lại áp bức Pháp - Nhật. Năm 1941, Tỉnh ủy chỉ đạo hưởng ứng các cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kỳ, xúc tiến mạnh mẽ xây dựng các đội tự vệ, chuẩn bị lực lượng tiến lên đấu tranh vũ trang. Tháng 6 - 1941, Tỉnh ủy quyết định xây dựng căn cứ cách mạng, đến tháng 7 năm 1941 chiến khu Ngọc Trạo được thành lập; tại đây, ngày 19 tháng 9 năm 1941, đội du kích Ngọc Trạo ra đời. Thực dân Pháp tìm mọi thủ đoạn đánh phá chiến khu và điên cuồng khủng bố hòng dập tắt phong trào cách mạng ở Thanh Hóa.
Đầu năm 1942, Tỉnh ủy Thanh Hóa được khôi phục; cuối năm 1942, bắt liên lạc với cơ sở Đảng ở Hà Nội, nhận được Chương trình hoạt động của Việt Minh và Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 của Đảng (tháng 5 - 1941). Tỉnh ủy quyết định chuyển “Thanh Hóa Ái quốc hội” thành “Mặt trận Việt Minh” đưa phong trào cách mạng Thanh Hóa hòa nhập với phong trào cách mạng chung của cả nước.
Từ năm 1944, chiến tranh thế giới thứ hai bước sang giai đoạn mới, chủ nghĩa phát xít đứng trước nguy cơ sụp đổ; trước tình hình thế giới và trong nước có những chuyển biến có lợi cho cách mạng, tháng 5 - 1944, Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị “Sửa soạn khởi nghĩa”, đến tháng 8 - 1944 ra Lời kêu gọi toàn dân “Sắm vũ khí đuổi thù chung”. Trước tình hình thế giới và trong nước chuyển biến mau lẹ, Tỉnh ủy Thanh Hóa mở hội nghị Đại biểu Đảng bộ tại làng Vĩ Liệt (huyện Hà Trung) vào ngày 24 - 6 - 1944, ra Nghị quyết “gấp rút chuẩn bị khởi nghĩa”.
Để đẩy mạnh công cuộc chuẩn bị khởi nghĩa, ngày 3 - 3 - 1945, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh tổ chức Hội nghị tại làng Phú Nhi (nay thuộc xã Hưng Lộc, huyện Hậu Lộc), đề ra những nhiệm vụ cần kíp cho cách mạng. Ngày 5 - 3 - 1945, Tỉnh bộ Việt Minh Thanh Hóa ra Chỉ thị “Đòi ăn” kêu gọi nhân dân vùng dậy đấu tranh, kiên quyết đòi lại cơm áo.
Trong lúc phong trào cách mạng cả nước và tỉnh Thanh Hóa đang trên đà phát triển mạnh thì tối ngày 9 - 3 - 1945, phát xít Nhật làm đảo chính hất cẳng Pháp, độc chiếm Đông Dương. Trước tình hình đó, ngày 12 - 3 - 1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” chỉ đạo toàn Đảng, toàn dân tộc chuẩn bị điều kiện vùng lên giành chính quyền.
Triển khai Chỉ thị của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, Tỉnh ủy Thanh Hóa tổ chức Hội nghị tại làng Vĩ Liệt, huyện Hà Trung (đầu tháng 4 - 1945) đề ra kế hoạch chuẩn bị khởi nghĩa. Sau Hội nghị, toàn tỉnh phát động cao trào “Sắm vũ khí đuổi thù chung” sôi động, khẩn trương. Lực lượng vũ trang hỗ trợ cho quần chúng cướp kho thóc của Nhật để cứu đói, Mặt trận Việt Minh tổ chức các đoàn đi diễn thuyết xung phong tại các khu vực tập trung dân cư, phong trào “Kháng Nhật cứu quốc” phát triển sâu rộng đến tận làng xã. Trên cơ sở đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang, tự vệ và quần chúng cách mạng trong nhiều địa phương đã tiến hành khởi nghĩa từng phần giành chính quyền ở cấp làng xã. Ngày 24 - 7 - 1945, dưới sự chỉ đạo của Chi bộ, tự vệ và quần chúng cách mạng huyện Hoằng Hóa đã khởi nghĩa giành chính quyền, lực lượng cách mạng đã làm chủ và quản lý mọi mặt hoạt động trên địa bàn huyện Hoằng Hóa. Khởi nghĩa Hoằng Hóa đã thúc đẩy lực lượng cách mạng khu vực Trung châu chuẩn bị mọi điều kiện chớp thời cơ giành chính quyền.
Ngày 13 - 8 - 1945, Tỉnh ủy tổ chức Hội nghị mở rộng tại làng Mao Xá (xã Thiệu Toán, huyện Thiệu Hóa) để quyết định những chủ trương, biện pháp khẩn cấp phát động nhân dân nổi dậy giành chính quyền. Trong lúc Hội nghị đang họp thì ngày 15 - 8 - 1945 nhận được tin: Nhật đầu hàng đồng minh vô điều kiện. Trước tình hình đó, Tỉnh ủy quyết định phát động toàn dân vùng dậy tổng khởi nghĩa vào đêm 18 rạng sáng ngày 19 - 8 - 1945. Tỉnh ủy đã chỉ định Ủy ban khởi nghĩa và Ủy ban Nhân dân Cách mạng lâm thời tỉnh, chỉ định Chủ tịch Ủy ban khởi nghĩa và Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Cách mạng lâm thời các huyện khu vực đồng bằng và hai huyện miền núi (Cẩm Thủy, Thạch Thành). Riêng các huyện (khi đó gọi là các châu): Như Xuân, Thường Xuân, Ngọc Lặc, Lang Chánh, Bá Thước, Quan Hóa do sự kìm kẹp của bọn thổ ty, lang đạo, giác ngộ cách mạng của quần chúng chưa cao, cơ sở cách mạng còn non yếu, thế lực của giai cấp bóc lột còn mạnh, Tỉnh ủy quyết định điều động lực lượng các huyện miền xuôi lên hỗ trợ nhân dân miền núi giành chính quyền.
Thực hiện lệnh Tổng khởi nghĩa của Tỉnh ủy, ngay từ đêm ngày 18 - 8 - 1945 cho đến ngày 22 - 8 - 1945, các huyện khu vực đồng bằng và hai huyện miền núi (Thạch Thành, Cẩm Thủy) đã vùng dậy khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Ngày 23 - 8 - 1945, từ căn cứ Thiệu Hóa, Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Thanh Hóa về thị xã Thanh Hóa (nay là thành phố Thanh Hóa) ra mắt đồng bào trong tỉnh. Đồng chí Lê Tất Đắc, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời công bố danh sách những người tham gia chính quyền tỉnh và kêu gọi toàn thể nhân dân đoàn kết chiến đấu, xây dựng, bảo vệ chính quyền cách mạng.
Dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, thực hiện mệnh lệnh của Ủy ban Nhân dân cách mạng lâm thời, lực lượng tự vệ các huyện Thọ Xuân, Thiệu Hóa, Yên Định, Vĩnh Lộc, Nông Cống... đã tiến về các huyện miền núi (Như Xuân, Thường Xuân, Ngọc Lặc, Lang Chánh) hỗ trợ cho lực lượng cách mạng tại chỗ trấn áp bọn lang đạo phản động, thành lập chính quyền cách mạng. Trong quá trình thành lập chính quyền cách mạng tại các châu, huyện miền núi, Tỉnh ủy chủ trương giành chính quyền bằng phương pháp hòa bình và thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc rộng rãi, vận động các lang đạo có thế lực và tư tưởng tiến bộ tham gia thành viên của chính quyền mới. Trong hai ngày 27 và 28 tháng 8 năm 1945, Ủy ban Cách mạng lâm thời tỉnh đã cho mời các tri châu: Như Xuân, Thường Xuân, Ngọc Lặc, Lang Chánh, Bá Thước, Quan Hóa về tỉnh. Đồng chí Lê Tất Đắc thay mặt Ủy ban Nhân dân Cách mạng lâm thời tuyên bố xóa bỏ bộ máy cai trị cũ ở các châu, huyện miền núi Thanh Hóa, thành lập chính quyền mới trực thuộc chính quyền cách mạng tỉnh. Trước sức mạnh áp đảo của cách mạng, tri châu các huyện miền núi phải chấp thuận. Riêng Quan Hóa và Bá Thước khi Cách mạng Tháng Tám bùng nổ, tri châu Phạm Bá Thơ đã bỏ chạy sang Lào, đạo Thắng thừa cơ lập chính quyền mới, sau đó phải trao lại cho cách mạng.
Tại Lang Chánh: Trước Cách mạng Tháng Tám, đồng bào các dân tộc trong huyện bị thổ ty, lang đạo kìm kẹp, đè nén, áp bức, bóc lột dã man và do địa hình hiểm trở, giao thông kém phát triển nên ảnh hưởng của Đảng Cộng sản và phong trào cách mạng trong tỉnh đến với đồng bào các dân tộc Lang Chánh còn hạn chế. Nhiều vùng, đồng bào các dân tộc chưa hiểu về Cộng sản, về Việt Minh, về cách mạng. Nhiều vùng thế lực của thổ ty, lang đạo rất mạnh và ảnh hưởng rộng trong quần chúng. Nếu như quần chúng có biểu hiện chống đối sẽ bị thổ ty, lang đạo đàn áp thẳng tay.
Đầu năm 1945, bọn thổ ty, lang đạo ra sức vơ vét thóc gạo, bắt phu, bắt lính phục vụ Nhật, Pháp, nhân dân các làng đã nổi dậy đấu tranh. Đó là cuộc đấu tranh của nhân dân làng Xuốm, làng Chỏng (Đồng Lương), làng Khụ (Giao An, nay là xã Giao Thiện), làng Tá (Tam Văn)…
Cuộc đấu tranh của nhân dân làng Tá diễn ra quyết liệt. Nhân dân nhất quyết không đi phu, đi lính, không nộp thóc cho Nhật. Lê Xuân Tín (con trai Lê Xuân Kỳ, tri châu Lang Chánh) đã cho tay chân bắn chết anh Lê Văn Hủ (tức anh Ơn) - người cầm đầu cuộc đấu tranh của nhân dân làng Tá.
Bị áp bức bóc lột tàn bạo, nhiều thanh niên Lang Chánh phải rời bỏ quê hương đến các địa phương trong tỉnh sinh sống, trong đó có anh Ngân Văn Yết (dân tộc Thái) quê làng Năng Cát (xã Trí Nang) đã rời bỏ quê hương đi làm ăn và tham gia Việt Minh tại huyện Thọ Xuân, tham gia khởi nghĩa chính quyền ở Thọ Xuân, tham gia lực lượng vũ trang cách mạng và trở thành cán bộ quân sự của Đảng.
Như vậy, cho đến trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, tại Lang Chánh, Tỉnh ủy Thanh Hóa chưa xây dựng được cơ sở Việt Minh và tổ chức Đảng. Đồng bào các dân tộc Lang Chánh do bị áp bức bóc lột, đời sống kinh tế, dân trí xã hội còn thấp, giác ngộ giai cấp, giác ngộ cách mạng còn nhiều hạn chế, lực lượng thổ ty, lang đạo còn mạnh, chính quyền thực dân phong kiến chưa bị rệu rã… Do vậy, trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đồng bào các dân tộc Lang Chánh chưa có đủ điều kiện khởi nghĩa giành chính quyền trên địa bàn huyện.
Sau khi chính quyền cách mạng từ căn cứ Thiệu Hóa về tỉnh lỵ Thanh Hóa xây dựng, bảo vệ chế độ mới. Thực hiện sự phân công của Ủy ban khởi nghĩa tỉnh, Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời huyện Thọ Xuân đã điều động một đơn vị tự vệ hành quân lên Lang Chánh, kết hợp với lực lượng cách mạng tại chỗ giải tán chính quyền cũ, thành lập Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời huyện Lang Chánh.
Thực hiện chủ trương của tỉnh, nhằm đoàn kết toàn dân, chuẩn bị lực lượng kháng chiến, một số thổ ty, lang đạo được cơ cấu vào bộ máy chính quyền các cấp; Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh đã chỉ định lang đạo Lê Xuân Tín làm Chủ tịch, Lê Xuân Thiềng làm Phó Chủ tịch (cháu Lê Xuân Tín), Lê Phi Ất làm Chánh Văn phòng, Lê Xuân Biêng làm Thẩm phán Tòa án huyện.
Cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám đã giành chính quyền về tay nhân dân. Các châu, huyện miền núi trong đó có Lang Chánh đã đấu tranh giành được chính quyền, lập ra Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời, tiếp tục củng cố chính quyền dân chủ nhân dân, bảo vệ thành quả cách mạng mới giành được, bắt tay xây dựng chế độ mới.
Đấu tranh xây dựng, củng cố chính quyền cách mạng, tổ chức bảo vệ quê hương trong những năm đầu kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1948)
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi, mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do cho dân tộc. Nhưng cách mạng nước nhà vừa mới thành công đã phải đương đầu với muôn vàn khó khăn, thách thức to lớn: Ở miền Nam, được sự giúp đỡ của quân Anh, ngày 23 - 9 - 1945, quân Pháp nổ súng đánh chiếm Sài Gòn mở đầu cuộc xâm lược nước ta lần thứ hai. Ở miền Bắc, 20 vạn quân đội Tưởng Giới Thạch với danh nghĩa Đồng minh vào giải giáp quân đội Nhật ồ ạt kéo vào miền Bắc nước ta; đi theo quân đội Tưởng Giới Thạch là bọn Việt gian phản động, Việt Nam Quốc dân đảng (Việt Quốc), Việt Nam cách mạng đồng minh hội (Việt Cách) sống lưu vong ở nước ngoài kéo về cấu kết cùng địa chủ, cường hào, phản động đội lốt tôn giáo âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng non trẻ vừa mới thành lập. Bên cạnh đó, những khó khăn về kinh tế, tài chính, tàn dư xấu của xã hội cũ để lại… vận mệnh đất nước ở vào thế “Ngàn cân treo sợi tóc”.
Đối với tỉnh Thanh Hóa nói chung và huyện Lang Chánh nói riêng phải đối mặt với nhiều khó khăn. Lũ lụt cuối năm 1944 làm nhiều đoạn đê các con sông trong tỉnh bị vỡ, làm cho lúa và hoa màu mất trắng. Thêm vào đó là hậu quả của 80 năm bị thực dân Pháp, phát xít Nhật, địa chủ, phong kiến áp bức, bóc lột đến tận xương tủy. Đầu năm 1945, nạn đói chưa từng có trong lịch sử đã diễn ra trên địa bàn toàn tỉnh, trong đó có huyện Lang Chánh cướp đi sinh mạng của nhiều người. Những tệ nạn do xã hội cũ để lại như cờ bạc, rượu chè, mê tín dị đoan, ăn uống trong ma chay, cưới xin kéo dài còn rất nặng nề. Trình độ văn hóa của đại đa số quần chúng rất thấp (toàn huyện trên 95% dân số mù chữ). Đời sống nhân dân vô cùng khó khăn.
Mặc dù vậy, phong trào cách mạng của huyện Lang Chánh thời điểm này có những thuận lợi hết sức cơ bản. Ngay sau khi lãnh đạo cả nước giành chính quyền thắng lợi, Trung ương Đảng đã lãnh đạo toàn dân thực hiện các nhiệm vụ cấp bách là diệt giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Đồng thời Đảng cũng đề ra nhiệm vụ cấp bách trước mắt cho toàn quân, toàn dân là “Phải củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống nhân dân”.
Trong những ngày cách mạng còn non trẻ, Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc” của Trung ương Đảng là cương lĩnh hành động chung cho toàn Đảng, soi đường dẫn dắt nhân dân ta vượt qua khó khăn, thử thách tiến lên giành những thắng lợi to lớn hơn.
Tại Thanh Hóa, trung tuần tháng 9 - 1945, một trung đoàn quân Tưởng Giới Thạch và bọn tay sai Quốc dân Đảng kéo vào Thanh Hóa chiếm đóng các vị trí chiến lược trọng yếu trong thị xã Thanh Hóa, gây nhiều khó khăn phức tạp cho chính quyền cách mạng. Chúng nuôi dưỡng, kích động các phần tử phản động, thành lập Đệ lục chiến khu ở ấp Di Linh (nay thuộc xã Hợp Lý, huyện Triệu Sơn), đòi tước vũ khí lực lượng vũ trang cách mạng, đòi đưa tay chân vào bộ máy chính quyền tỉnh... Các thổ ty, lang đạo miền núi tìm cách móc nối với bọn phản động Quốc dân Đảng âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng.
Trên địa bàn huyện Lang Chánh, những ngày đầu thành lập chính quyền mới tuân thủ sự chỉ đạo của chính quyền cách mạng tỉnh, mọi hoạt động diễn ra nền nếp, nghiêm túc. Tuy nhiên, bọn phản động đã lợi dụng sách lược mềm dẻo của Đảng và chính quyền cách mạng đưa tay chân vào nắm giữ các chức vụ quan trọng trong bộ máy chính quyền huyện Lang Chánh nói riêng, các huyện miền núi Thanh Hóa nói chung. Lê Xuân Tín, nhân danh là Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Cách mạng lâm thời huyện thâu tóm mọi quyền hành, tìm cách vô hiệu hóa các tổ chức quần chúng, vô hiệu hóa những cán bộ cốt cán tốt được cách mạng tin cẩn. Chúng đã biến lực lượng dân quân, du kích vừa được thành lập thành lực lượng thổ phỉ. Bên ngoài, chúng ra vẻ phục tùng cách mạng nhưng bên trong bọn chúng ngấm ngầm thực hiện ngược lại, hoặc không thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Chính phủ.
Bọn cầm đầu Quốc dân Đảng ở tỉnh lỵ Thanh Hóa đã cử tay chân lên Lang Chánh và các huyện miền núi móc nối với bọn thổ ty, lang đạo phản động xây dựng lực lượng chống đối cách mạng. Thực hiện mệnh lệnh của quan thầy, cha con Lê Xuân Kỳ, Lê Xuân Tín đã tuyển mộ 200 lính lấy danh nghĩa là dân quân du kích và ngấm ngầm xây dựng căn cứ ở bản Lót, xã Lê Lai (nay là xã Tam Văn), xây dựng căn cứ ở Hón Oi, xã Quyết Thắng (nay thuộc xã Quang Hiến) để tập luyện quân sự. Bọn chúng đã bắt nhân dân đóng góp lương thực, thực phẩm nuôi lực lượng vũ trang, tổ chức rèn đúc, mua sắm vũ khí chờ ngày vùng dậy.
Trong Tuần lễ Vàng, nhân dân Lang Chánh đã đóng góp ủng hộ quỹ “Độc lập” của Chính phủ, hàng trăm chỉ vàng, hàng chục lạng bạc và hàng tạ đồng... Cha con Kỳ, Tín đã tìm cách tước đoạt số vàng, bạc, đồng do nhân dân đóng góp cho Chính phủ. Chúng đã cho tay chân bắt trộm trâu, bò của dân đem về căn cứ làm thịt. Chúng mượn danh chính quyền cách mạng vơ vét thuế khóa, tiền bạc, lương thực, vũ khí, thuốc men làm của riêng và thẳng tay đàn áp những người chống đối.
Giải quyết tình hình phức tạp ở khu vực miền núi nói chung, ở huyện Lang Chánh nói riêng, Tỉnh ủy đã chỉ đạo thành lập Ủy ban Thượng Du và lực lượng vũ trang Thượng Du giao cho những lang đạo có thế lực phụ trách và cử đồng chí Nguyễn Văn Huệ, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân Cách mạng lâm thời tỉnh làm cố vấn. Ủy ban Thượng Du có trách nhiệm tổ chức chỉ đạo kiểm tra đôn đốc mọi hoạt động của hệ thống chính quyền ở các huyện miền núi. Tỉnh ủy còn cử nhiều cán bộ có năng lực, phẩm chất, am hiểu phong tục, tập quán của đồng bào các dân tộc làm cố vấn cho Ủy ban Nhân dân cách mạng lâm thời các huyện miền núi. Đồng thời, tăng cường cho thượng du lực lượng vũ trang mạnh để trấn áp bọn thổ ty, lang đạo phản động đang mưu đồ tạo phản. Huyện Lang Chánh được Ủy ban Thượng du cử một số cán bộ xuống để giám sát hoạt động của Ủy ban lâm thời huyện; đồng thời, chỉ đạo thành lập Ủy ban lâm thời các xã trên địa bàn huyện và vận động nhân dân tham gia xây dựng chính quyền, vận động thanh niên lên đường nhập ngũ.
Tháng 5 - 1946, quân đội Tưởng Giới Thạch rút về Trung Quốc theo tinh thần Hiệp ước Hoa - Pháp, bọn tay sai Quốc dân Đảng rút chạy theo quan thầy, đã bị lực lượng vũ trang cách mạng tóm gọn. Một số tên Quốc Dân Đảng đã trốn chạy lên Lang Chánh được cha con Kỳ, Tín che giấu nuôi dưỡng và cùng cha con Kỳ, Tín tìm cách liên hệ với quân đội Pháp âm mưu đánh chiếm miền Tây Thanh Hóa. Bọn chúng đã tích cực xây dựng, huấn luyện lực lượng vũ trang và tập hợp bọn phản động thành lập cái gọi là “Đại Việt Duy Tân” phát triển lực lượng chính trị chống phá cách mạng. Chúng đã liên kết với Hà Công Thắng (khi đó đang giữ chức vụ Phó Chỉ huy lực lượng quân sự miền Tây), Phạm Văn Bổn và nhiều tên lang đạo ở khu vực miền núi âm mưu làm bá chủ miền Tây Thanh Hóa.
Đầu năm 1947, đồng chí Hoàng Văn Cài thay mặt chính quyền tỉnh lên kiểm tra tình hình các huyện miền núi. Sau khi làm việc ở Lang Chánh, đoàn cán bộ lên Bá Thước thì cha con Kỳ, Tín cho lực lượng phục sẵn ở chân dốc Sáp Ong bắn chết đồng chí Ngân Văn Yết là Trung đội trưởng bộ đội tỉnh và đồng chí cảnh vệ. Đồng chí Hoàng Văn Cài bị địch bắn bị thương nặng. Trước sự kiện này, cơ sở cách mạng huyện Lang Chánh càng thêm căm thù cha con Kỳ, Tín và bọn phản động, càng tích cực xây dựng lực lượng sẵn sàng chiến đấu.
Sau khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ, thực dân Pháp tăng cường lực lượng củng cố các đô thị và trục đường giao thông quan trọng, chiếm đóng và dần mở rộng chiến tranh đánh ra các vùng nông thôn. Cũng từ đây chúng bắt đầu cho quân tiến vào Thanh Hóa theo hai hướng ven biển và miền núi. Tháng 4 - 1947, quân đội viễn chinh Pháp ồ ạt đánh chiếm một số điểm xung yếu ở khu vực miền Tây Thanh Hóa. Ở các huyện miền núi, với âm mưu chiến thuật “Vết dầu loang”, từ Lào, thực dân Pháp chia làm ba mũi nhọn, dọc theo sông Mã, sông Lò, sông Luồng kéo xuống. Ngày 1 - 5, chúng đánh chiếm thị trấn Hồi Xuân (Quan Hóa), ngày 7 - 5 chúng đánh chiếm xã Cổ Lũng (Bá Thước), sau đó chúng chiếm đóng xã Yên Khương (Lang Chánh), xã Bát Mọt (Thường Xuân)... lập ra một phòng tuyến thuộc hành lang Đông - Tây, âm mưu chia cắt miền Tây Thanh Hóa với các huyện vùng nội địa Thanh Hóa. Cùng với đánh chiếm miền Tây, giặc Pháp tiến hành đổ bộ càn quét vùng ven biển và thành lập các tổ chức phản động chống phá hậu phương trên nhiều phương diện.
Lợi dụng tình hình trên, cha con Kỳ, Tín đã liên hệ với quân đội Pháp ở đồn Yên Khương xin vũ khí. Được quan thầy chấp nhận, cha con Kỳ, Tín đã giả danh cách mạng đưa lực lượng dân quân, du kích lên Yên Khương đánh Pháp, nhưng thực chất là lên Yên Khương nhận súng đạn do quân đội Pháp tài trợ. Thực hiện mưu đồ phản dân hại nước, cha con Kỳ, Tín đã giúp quân đội Pháp tập hợp lực lượng âm mưu lập ra cái gọi là “Xứ Mường tự trị” nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, chống phá công cuộc xây dựng hậu phương kháng chiến của ta. Bọn chúng đã tìm mọi thủ đoạn mua chuộc, tha hóa cán bộ, bộ đội và tổ chức lực lượng chặn đón các ngả đường xung yếu bắt cóc giết hại cán bộ, bộ đội trên đường đi công tác.
Nhằm củng cố chính quyền, phát triển lực lượng vũ trang cách mạng bảo vệ vững chắc miền Tây Thanh Hóa, tháng 6 - 1947, Tỉnh ủy Thanh Hóa chỉ đạo hợp nhất Ủy ban Hành chính các cấp thành lập Ủy ban Hành chính kháng chiến Thượng Du (gồm 6 huyện: Như Xuân, Thường Xuân, Ngọc Lặc, Lang Chánh, Bá Thước, Quan Hóa). Đến ngày 9 - 10 - 1947, Tỉnh ủy chỉ đạo thành lập Ban Chỉ huy Dân quân Thượng Du trực thuộc sự chỉ huy của Tỉnh đội Thanh Hóa, về mặt hành chính trực thuộc Ủy ban Hành chính kháng chiến Thượng Du. Tỉnh ủy đã tăng cường cho miền Tây một số đại đội chiến đấu độc lập và 2 đại đội Cầm Bá Thước, Hà Văn Mao kết hợp với dân quân du kích các huyện tổ chức đánh địch.
Đối với Lang Chánh, để hỗ trợ cho quần chúng đấu tranh củng cố chính quyền, xây dựng lực lượng cách mạng, Tỉnh ủy đã tăng cường 1 trung đội vũ trang gồm 40 chiến sĩ do đồng chí Hoàng Tiến Mão làm Trung đội trưởng, đồng chí Nguyễn Văn Kinh làm Chính trị viên, đó là Trung đội 5 thuộc Đại đội 6, Trung đoàn chủ lực 77 của tỉnh. Cán bộ, chiến sĩ Trung đội 5 cùng ăn, cùng ở, cùng làm với đồng bào các dân tộc Lang Chánh và tích cực tuyên truyền vận động cách mạng. Nhờ đó, giác ngộ giai cấp, giác ngộ dân tộc trong nhân dân ngày càng nâng cao, hệ thống chính quyền và đoàn thể cách mạng, được xây dựng, củng cố từng bước, các phong trào thi đua kháng chiến, kiến quốc được đẩy mạnh.
Cùng với tuyên truyền, vận động nhân dân, các chiến sĩ Trung đội 5 đã giúp các địa phương lựa chọn xây dựng, huấn luyện các trung đội, tiểu đội dân quân du kích sẵn sàng đập tan âm mưu chống đối của thổ ty, lang đạo phản động và sẵn sàng chiến đấu bảo vệ quê hương.
Thu Đông năm 1947, dưới sự chỉ đạo của Trung ương Đảng, quân dân chiến khu Việt Bắc đã đập tan chiến dịch Thu Đông của quân đội thực dân Pháp, bảo vệ vững chắc Thủ đô kháng chiến. Hòa vào chiến công chung, dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, quân dân miền Tây Thanh Hóa đã đồng loạt nổ súng tấn công tiêu diệt các đồn bốt chiếm đóng của địch, buộc chúng phải rút về biên giới Lào - Việt. Tiêu biểu là các trận đánh sau đây:
Tháng 6 - 1947, bộ đội và du kích Quan Hóa chặn đánh 100 lính Pháp tiếp viện cho đồn Hồi Xuân, tiêu diệt 31 tên và 2 tên sĩ quan Pháp.
Tháng 7 - 1947, Đại đội 72 cùng du kích các xã: Hồi Xuân, Nam Xuân, Phú Nghiêm, Nam Động (Quan Hóa) bao vây tấn công đồn Hồi Xuân, buộc địch phải bỏ đồn tháo chạy.
Tháng 8 - 1947, Trung đội 5 Lang Chánh đã phối hợp với Đại đội 71 (Trung đoàn chủ lực tỉnh) bao vây tấn công đồn Yên Khương thu phục 4 đại đội dân binh do cha con Kỳ, Tín tổ chức để phối hợp với quân đội Pháp chiếm giữ khu vực biên giới, thu hồi 28 súng. Cùng với tấn công đồn Yên Khương, quân dân miền Tây đã bao vây tấn công đồn Cổ Lũng, La Hán, Bát Mọt buộc địch phải rút chạy. Chiến công của quân và dân Lang Chánh đã góp phần cùng quân dân các huyện miền núi giải phóng miền Tây Thanh Hóa lần thứ nhất.
Cùng với đánh đuổi và tiêu diệt lực lượng chiếm đóng của quân đội Pháp, Tỉnh ủy quyết định tổ chức lực lượng trấn áp các tổ chức phản động, đập tan âm mưu xây dựng “Xứ Mường tự trị” của địch, đồng thời tiến hành thanh lọc bọn lang đạo phản động lợi dụng chính quyền cách mạng thực hiện mưu đồ phản dân hại nước.
Tháng 7 - 1948, Tỉnh ủy tổ chức lực lượng lên Lang Chánh bắt cha con Kỳ, Tín và trấn áp bọn thổ ty, lang đạo phản động. Đồng chí Lê Công Khai (Chính trị viên Tỉnh đội) chỉ huy một đơn vị bộ đội lên Lang Chánh phối hợp với cơ sở cách mạng và lực lượng vũ trang địa phương chăng lưới bủa vây các khu vực trọng yếu và dùng mưu bắt Lê Xuân Kỳ viết thư cho Lê Xuân Tín (khi đó Tín đang làm việc với đạo Thắng tại Ban Dân quân Thượng Du). Đồng chí Lê Công Khai thay mặt chính quyền tỉnh công bố tội trạng và đọc lệnh bắt cha con Kỳ, Tín. Trước những bằng chứng đanh thép, cha con Kỳ, Tín phải cúi đầu nhận tội và bị tuyên án tử hình vì tội phản quốc, hại dân.
Cùng với bắt cha con Lê Xuân Kỳ, Lê Xuân Tín, bộ đội kết hợp với dân quân du kích và cơ sở cách mạng tiến hành vây bắt những tên đầu sỏ bỏ trốn, tiến hành giải tán sào huyệt và lực lượng vũ trang phản cách mạng trong vùng. Lực lượng cách mạng đã tiến hành tuyên truyền giáo dục những người lầm đường lạc lối và giải thích cho nhân dân hiểu rõ âm mưu thủ đoạn và tội trạng của bọn phản động, tạo sự ổn định về an ninh chính trị và trật tự xã hội.
Đối với hệ thống chính quyền huyện Lang Chánh, Tỉnh ủy chỉ đạo đưa ông Lê Xuân Biêng (Thẩm phán Tòa án huyện) thay Lê Xuân Tín làm Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chính huyện Lang Chánh, phân công một đồng chí đảng viên Cộng sản làm Chánh Văn phòng, các chức vụ quan trọng khác phân công cán bộ có năng lực và trung thành, phụ trách đảm bảo cho bộ máy Nhà nước vận hành đồng bộ, nhịp nhàng theo sự chỉ đạo của chính quyền tỉnh.
Đối với hệ thống chính quyền thôn, xã, chính quyền Tỉnh chỉ đạo loại bỏ những phần tử chống đối, phẩm chất chính trị không trong sạch, bồi dưỡng, đề bạt những quần chúng ưu tú, trung thành với lý tưởng cách mạng.
Đối với lực lượng vũ trang, Tỉnh chỉ đạo biên chế lại tổ chức, sàng lọc, đào thải những phần tử trước đây là tay chân của cha con Kỳ, Tín; bổ sung lực lượng trung kiên vào các cương vị chỉ huy.
Sau khi củng cố chính quyền, phong trào thi đua kháng chiến kiến quốc phát triển sôi nổi, rộng khắp. Các tổ chức quần chúng như Thanh niên, Phụ nữ, Nông dân, Mặt trận lần lượt được xây dựng, củng cố và hoạt động; cơ sở cách mạng hình thành và phát triển rộng khắp tạo ra lực lượng cách mạng đông đảo, đảm bảo cho chế độ dân chủ nhân dân phát triển vững chắc.
Đảng bộ ra đời và lãnh đạo nhân dân tiếp tục kháng chiến, kiến quốc (1948 - 1950)
Sau khi bị thất bại nặng nề ở Việt Bắc và trong chiến trường cả nước, thực dân Pháp buộc phải từ bỏ chiến lược “Đánh nhanh, thắng nhanh” chuyển sang thực hiện chiến lược “Lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”, “Dùng người Việt đánh người Việt”.
Tháng 1 - 1948, Hội nghị Trung ương Đảng họp tại Việt Bắc, đã chỉ rõ âm mưu thâm độc của thực dân Pháp, vạch ra nhiệm vụ chính trị, quân sự, kinh tế của cả nước tiếp tục đưa cuộc kháng chiến tiến lên. Nghị quyết Trung ương Đảng chỉ rõ: Sau chiến thắng Việt Bắc Thu - Đông 1947, lực lượng so sánh giữa ta và địch chuyển biến theo hướng có lợi cho ta.
Được Nghị quyết Trung ương soi sáng, tháng 2 - 1948, Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa tổ chức Đại hội lần thứ nhất tại làng Thuần Hậu (xã Xuân Minh, huyện Thọ Xuân) kiểm điểm việc thực hiện Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc của Trung ương Đảng, đề ra nhiệm vụ “Xây dựng Thanh Hóa trở thành tỉnh kiểu mẫu”, nhằm thực hiện lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong dịp lần đầu tiên Người vào thăm và làm việc với Đảng bộ, nhân dân Thanh Hóa vào ngày 20 - 2 - 1947. Đại hội chỉ rõ: Toàn Đảng, toàn dân phải tập trung mọi nỗ lực xây dựng Thanh Hóa thành tỉnh kiểu mẫu, tức là xây dựng căn cứ, hậu phương vững chắc của cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ của dân tộc Việt Nam, cung cấp cao nhất, nhiều nhất sức người, sức của cho các chiến trường, phục vụ chiến đấu tại chỗ bảo vệ hậu phương Thanh Hóa. Sau khi phân tích, đánh giá vị thế chiến lược của miền Tây Thanh Hóa. Đại hội đề ra khẩu hiệu “Thượng du thắng là Thanh Hóa thắng” nhằm tập trung sự chỉ đạo xây dựng, bảo vệ miền Tây Thanh Hóa - địa bàn chiến lược quan trọng của Thanh Hóa, của các chiến trường Bắc Việt Nam và Bắc Lào.
Tháng 4 - 1948, Tỉnh ủy tổ chức Hội nghị mở rộng bàn về công tác xây dựng Đảng. Công tác xây dựng Đảng ở các huyện miền núi trở thành yêu cầu bức thiết, được Tỉnh ủy đề ra nhiều giải pháp sắc bén tổ chức thực hiện. Tỉnh ủy cử 200 cán bộ chính trị của các huyện (là Huyện ủy viên hoặc Thường vụ Huyện ủy) tăng cường cho các huyện miền núi nhằm bổ sung cán bộ cho bộ máy chính quyền cấp huyện, tiến hành củng cố chính quyền cách mạng, xây dựng Đảng và lực lượng vũ trang cách mạng. Tỉnh ủy quyết định giải tán Ủy ban Kháng chiến Hành chính Thượng Du, thành lập Ban Miền Tây và Đảng bộ Ban Miền Tây, tổ chức chỉ đạo công cuộc kháng chiến kiến quốc và xây dựng Đảng ở các huyện miền núi. Đầu năm 1949, thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, Ban Miền Tây đã tăng cường cho Lang Chánh một số cán bộ, đảng viên với danh nghĩa là cán bộ quân sự huyện Lang Chánh.
Ngày 15 - 02 - 1949, dưới sự chỉ đạo của Đảng bộ Ban Miền Tây, tại nhà ông Phạm Văn Chính chòm Cắm, xã Đồng Lương, các đồng chí đảng viên được tăng cường về Lang Chánh gồm: Nguyễn Văn Tần, Nguyễn Ngọc Tôn, Nguyễn Văn Bồng, Lương Văn Trung, tổ chức Hội nghị thành lập Chi bộ Cộng sản đầu tiên tại Lang Chánh, do đồng chí Nguyễn Văn Tần làm Bí thư. Chi bộ huyện Lang Chánh ra đời đã tổ chức chỉ đạo toàn diện công cuộc cách mạng trên địa bàn toàn huyện. Sự ra đời của Chi bộ Cộng sản, tạo ra bước ngoặt mới - từ đây sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc ở Lang Chánh đã có tổ chức Đảng trực tiếp lãnh đạo.
Nhằm tập hợp lựa chọn bồi dưỡng cán bộ cốt cán cho phong trào cách mạng, thực hiện chủ trương của Ban Miền Tây, Chi bộ Lang Chánh đã tổ chức Hội kháng chiến. Trên cơ sở hoạt động của Hội kháng chiến, chi bộ đã tuyên truyền, giáo dục, lựa chọn những quần chúng ưu tú cho đi học các lớp đối tượng Đảng làm hạt nhân cho phong trào cách mạng trong huyện và tiến hành lựa chọn, bồi dưỡng kết nạp vào Đảng. Theo đề nghị của Chi bộ Lang Chánh, Ban Miền Tây đã cử cán bộ tuyên giáo về Lang Chánh mở lớp bồi dưỡng đối tượng Đảng cho 15 quần chúng ưu tú tại làng Mống, xã Tân Phúc. Sau đó, lần lượt kết nạp hàng chục đảng viên mới, hầu hết là con em đồng bào các dân tộc Lang Chánh đang tham gia lực lượng vũ trang cách mạng trong huyện.
Từ những hạt giống đỏ đầu tiên, đến cuối năm 1949, huyện Lang Chánh đã xây dựng thêm chi bộ mới. Đó là chi bộ ghép của hai xã Giao An - Tân Phúc và chi bộ xã Đồng Lương.
Đảm bảo cho sự lãnh đạo tập trung thống nhất của Đảng trên địa bàn Lang Chánh, tháng 8 năm 1950, Đảng ủy Ban Miền Tây chỉ đạo thành lập Đảng bộ huyện Lang Chánh trên cơ sở 3 chi bộ (Chi bộ Cơ quan huyện, Chi bộ ghép Giao An - Tân Phúc, Chi bộ xã Đồng Lương) và chỉ định Ban Chấp hành lâm thời gồm 7 đồng chí, cử đồng chí Lê Huy Hiệu làm Bí thư Đảng bộ.
Đảng bộ huyện ra đời đánh dấu bước phát triển mới về chất. Phong trào cách mạng huyện nhà có sự lãnh đạo tập trung thống nhất toàn diện, tuyệt đối và trực tiếp của Đảng bộ sẽ đi đến thắng lợi ngày càng to lớn, vẻ vang.
Ngay sau khi được thành lập, Huyện ủy đã đề ra nhiều chủ trương, giải pháp sắc bén phân công cán bộ, đảng viên bám sát cơ sở, bám sát quần chúng vận động, tổ chức đồng bào các dân tộc tiến hành các phong trào thi đua yêu nước sôi nổi rộng khắp xây dựng, bảo vệ hậu phương, đóng góp cho công cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc.
Về chính trị: Kịp thời đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ có năng lực và trung thành tăng cường cho hệ thống chính quyền các cấp, thanh lọc những phần tử phản động tìm cách chui vào bộ máy Nhà nước để phá hoại. Bằng biện pháp kiên quyết, khôn khéo, mềm dẻo, Huyện ủy đã chỉ đạo củng cố vững chắc hệ thống chính quyền các cấp. Huyện ủy đã chỉ đạo thành lập “Hội Kháng chiến” từ huyện đến làng xã. Hội Kháng chiến đã đảm nhận sứ mệnh đoàn kết toàn dân tham gia kháng chiến kiến quốc, đồng thời tiến hành phát triển, bồi dưỡng, giới thiệu cho Đảng những quần chúng ưu tú tạo nguồn kết nạp vào Đảng, đào tạo cán bộ chủ chốt của các địa phương, các ngành, các cấp trong huyện. Công tác xây dựng Đảng bộ được tiến hành tích cực; chỉ trong thời gian ngắn, Đảng bộ đã kết nạp hàng chục đảng viên mới là những quần chúng ưu tú trong đồng bào các dân tộc và thành lập thêm nhiều chi bộ mới. Tính đến tháng 9 - 1950, Đảng bộ đã có 6 chi bộ (Giao An, Đồng Lương, Tân Phúc, Quyết Thắng, Lê Lai, Yên Khương) gồm 52 đảng viên, trong đó có 5 đảng viên nữ.
Về quân sự: Huyện ủy đã giải tán lực lượng vũ trang do cha con Kỳ, Tín tổ chức, bắt giữ những tên đầu sỏ nguy hiểm, giáo dục những người lầm đường lạc lối, tổ chức theo dõi những phần tử nghi vấn... Ban Dân quân huyện được tăng cường những cán bộ trung thành và có đủ năng lực giáo dục, rèn luyện, tổ chức chỉ huy lực lượng vũ trang cách mạng công tác huấn luyện và chiến đấu. Trung đội bộ đội địa phương được tăng cường quân số, vũ khí, tích cực giúp đỡ dân quân du kích trong huyện tập luyện sẵn sàng chiến đấu đập tan âm mưu phản loạn của bọn thổ ty, lang đạo phản động và sẵn sàng đập tan các cuộc càn quét lấn chiếm của quân đội thực dân Pháp. Lực lượng vũ trang cách mạng đã tích cực giúp đỡ nhân dân sản xuất, thực hành tiết kiệm xây dựng bản mường ấm no, hạnh phúc... Đồng bào các dân tộc trong huyện đã đóng góp tiền của lập quỹ mua súng, lập quỹ cấp dưỡng bộ đội địa phương, quỹ khao quân... Đồng bào yêu quý bộ đội, dân quân, du kích như con em ruột thịt.
Về kinh tế: Để đảm bảo tự cấp, tự túc lương thực, thực phẩm đáp ứng yêu cầu của hậu phương và đóng góp cho cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc, Đảng bộ đã chỉ đạo chính quyền và các tổ chức quần chúng phát động toàn dân thi đua sản xuất tiết kiệm. Đồng bào các dân tộc đã tích cực phát nương làm rẫy, tỉa lúa, trồng ngô, khoai, sắn. Nhiều xã trong huyện đã tổ chức làm thủy lợi để cấy 2 vụ lúa ở diện tích trũng. Cán bộ, bộ đội đã hướng dẫn nhân dân làm phân hữu cơ chăm bón hoa màu. Chính quyền cách mạng đã tiến hành chia công điền, công thổ và ruộng đất vắng chủ cho dân nghèo sản xuất, đồng thời chỉ đạo nhân dân đấu tranh xóa bỏ tục lệ phục dịch không công cho bọn thổ ty, lang đạo. Để phát triển đàn gia cầm, gia súc, giữ gìn vệ sinh thôn bản, cán bộ và bộ đội đã hướng dẫn nhân dân chăm sóc, phòng chống dịch bệnh. Bằng sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, nền kinh tế huyện Lang Chánh từng bước phát triển. Nhân dân trong huyện có bát ăn, bát để và có điều kiện đóng góp cho kháng chiến.
Về văn hóa - xã hội: Do bọn thổ ty, lang đạo lũng đoạn chính quyền cách mạng nên các chính sách văn hóa của Đảng và Chính phủ nhằm cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân không được thực hiện. Từ khi cha con Kỳ, Tín và bọn phản động bị tiêu diệt, trấn áp, Đảng bộ đã chỉ đạo chính quyền cách mạng tập trung xây dựng nền văn hóa kháng chiến.
Để xây dựng nền văn hóa kháng chiến, trước tiên phải nâng cao dân trí, xóa bỏ hủ tục lạc hậu, xác lập quan hệ văn hóa mới tiến bộ. Thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Muốn giữ vững nền độc lập, muốn làm cho dân mạnh, nước giàu, mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ”. Muốn làm được điều đó “Những người đã biết chữ hãy dạy cho những người chưa biết chữ. Những người chưa biết chữ hãy gắng mà học cho biết. Vợ chưa biết thì chồng bảo, em chưa biết thì anh bảo, cha mẹ không biết thì con bảo. Phụ nữ lại cần phải học”, Huyện ủy Lang Chánh đã phát động phong trào xóa nạn mù chữ liên tục sôi động trên địa bàn toàn huyện. Huyện ủy đã chỉ đạo Ban Bình dân học vụ kết hợp cùng các địa phương xây dựng cơ sở vật chất, chọn thầy, mở lớp, mua sắm giấy bút động viên mọi người đến lớp. Toàn huyện đã có hàng ngàn người đi học, mỗi năm đã có từ 200 - 300 người biết đọc, biết viết. Nhiều người biết đọc, biết viết tiếp tục theo học bổ túc lớp 1, lớp 2. Toàn huyện có khoảng 40 lớp bổ túc văn hóa, với hàng trăm học viên. Xã Quyết Thắng, xã Tân Phúc là những đơn vị có phong trào xóa mù chữ và phong trào bổ túc văn hóa mạnh. Do biết chữ, đồng bào các dân tộc trong huyện có điều kiện để nhận thức đúng đắn hơn đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ. Nhiều người trở thành giáo viên, cán bộ chủ chốt các ngành, các cấp trong huyện. Cùng với xóa mù chữ cho người lớn, Huyện ủy chỉ đạo chính quyền cách mạng xây dựng, phát triển các trường phổ thông, vận động con em các dân tộc đi học.
Phong trào xây dựng nếp sống mới đã khơi dậy niềm tin yêu phấn khởi trong toàn xã hội. Hoạt động văn hóa, văn nghệ quần chúng diễn ra sôi động trong từng thôn, bản. Bộ đội, dân quân du kích và nhân dân tổ chức các đêm lửa trại, tổ chức các buổi biểu diễn. Lời ca, khúc hát, vở kịch, điệu múa làm cho bản mường vui nhộn, góp phần động viên, cổ vũ toàn quân, toàn dân tích cực xây dựng, bảo vệ hậu phương, đóng góp sức người, sức của cho kháng chiến. Phong trào vệ sinh phòng bệnh “Ăn chín, uống sôi”, “Sạch làng, tốt ruộng” góp phần hạn chế dịch bệnh hiểm nghèo. Tập tục, tập quán lạc hậu từng bước được đẩy lùi, quan hệ văn hóa mới vui tươi, lành mạnh từng bước phát triển, mở rộng, nền văn hóa kháng chiến và cách mạng từng bước được xây dựng, củng cố, phát triển, dân trí từng bước được nâng lên... Đó là những nhân tố quan trọng đảm bảo cho chế độ dân chủ nhân dân ở hậu phương Lang Chánh phát triển vững chắc.
Sau khi “Hành lang Đông - Tây” bị quân dân ta đập tan, cuối năm 1948, quân đội thực dân Pháp từ Lào tiến sang miền Tây Thanh Hóa càn quét và chiếm đóng một số khu vực trọng yếu dọc tuyến biên giới Thanh Hóa - Hủa Phăn, kết hợp với các tuyến phòng thủ dọc biên giới lập nên phòng tuyến Sông Mã, âm mưu thực hiện chiến lược “Lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”, “Dùng người Việt đánh người Việt". Chúng đã tăng cường lực lượng chiếm đóng miền Tây Thanh Hóa, lôi kéo bọn phản động lập ra cái gọi là “Liên Bang Bắc Thái Trung Việt”, “Quân đội Thái tự do”...
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ II “Đánh bật địch ra khỏi vùng tạm chiếm” bảo vệ miền Tây Thanh Hóa, địa bàn chiến lược quan trọng của chiến trường Bắc Việt Nam và Bắc Lào, cuối năm 1949 Tỉnh ủy Thanh Hóa đã quyết định mở chiến dịch Lê Lợi khai thông tuyến biên giới, khai thông các con đường tiếp viện, từ hậu phương Thanh Hóa với căn cứ địa Việt Bắc. Dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, lực lượng vũ trang tỉnh kết hợp với đoàn vũ trang công tác miền Tây, quân dân các huyện miền núi tiến công bao vây, bức hàng đồn Cổ Lũng, một vị trí chiến lược quan trọng, tiến công đồn Poọng Nưa, đồn Mường Lát, đồn Mường Xia và hệ thống đồn bốt địch dọc tuyến biên giới. Kết hợp với tấn công quân sự, quân dân các huyện miền núi đã đập tan tổ chức phản động “Liên Bang Bắc Thái Trung Việt”, “Quân đội Thái tự do”, xóa sổ các tổ chức phản động khác, củng cố chính quyền cách mạng. Phát huy thắng lợi, quân ta đã kết hợp chặt chẽ với bộ đội Pathet Lào tiến công tiêu diệt sào huyệt của địch, giải phóng 3 huyện (Mường Xôi, Sầm Tớ, Xiềng Khọ) và tạo ra điều kiện quan trọng để xây dựng khu căn cứ cách mạng Lào Bắc.
Để vận chuyển lương thực, vũ khí đảm bảo cho bộ đội ăn no, đánh thắng, dân công Lang Chánh đã phối hợp với dân công các huyện trong tỉnh tích cực gánh gạo, gánh đạn phục vụ bộ đội trong suốt chiến dịch. Sau khi khu căn cứ Lào Bắc hình thành, dân công Lang Chánh và các huyện tiếp tục vận chuyển hàng ngàn tấn lương thực, thực phẩm, công cụ sản xuất và hàng hóa cung cấp cho bộ đội, nhân dân trong khu căn cứ của bạn.
Tháng 7 - 1950, tại Đại hội lần thứ III, Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa đánh giá thành tích chiến đấu và phục vụ chiến đấu đảm bảo cho chiến dịch Lê Lợi toàn thắng của quân dân các huyện miền núi, trong đó đã khẳng định những đóng góp không nhỏ của Đảng bộ, quân và dân huyện Lang Chánh.
Năm năm (1945 - 1950) xây dựng, bảo vệ chế độ dân chủ nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đồng bào các dân tộc huyện Lang Chánh đã đoàn kết, nỗ lực đẩy lùi khó khăn, thách thức, tạo nên những thành quả cách mạng cơ bản trên các lĩnh vực (chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa) để tiếp tục phát triển vững chắc và đóng góp xứng đáng cho sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc của dân tộc.
ĐẢNG BỘ LÃNH ĐẠO TOÀN DÂN TIẾP TỤC XÂY DỰNG, BẢO VỆ HẬU PHƯƠNG VỮNG MẠNH, GÓP PHẦN KHÁNG CHIẾN THẮNG LỢI (1951 - 1954)
Lãnh đạo nhân dân xây dựng hậu phương vững mạnh
Đến năm 1950, tình hình chính trị trong nước và thế giới chuyển biến quan trọng: Cách mạng Trung Quốc thành công - nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ra đời (1949) tạo điều kiện cho cách mạng Việt Nam mở rộng quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa từ Á sang Âu. Trung Quốc, Liên Xô và nhiều nước trên thế giới lần lượt công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Điều kiện thuận lợi đó tiếp thêm sức mạnh cho cuộc kháng chiến của dân tộc ta đi đến thắng lợi.
Sau chiến thắng Biên giới (10 - 1950), thế và lực của quân và dân ta đã được tăng cường, Trung ương Đảng quyết định đưa cuộc kháng chiến của ta từ chiến tranh du kích lên chiến tranh chính quy, tạo ra tình thế mới chuyển sang giai đoạn phản công chiến lược.
Tháng 2 - 1951, Đảng tiến hành Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II đề ra những chủ trương, giải pháp quan trọng đưa cuộc kháng chiến sang giai đoạn mới. Đại hội quyết định thành lập ở mỗi nước (Việt Nam, Lào, Campuchia) một Đảng cộng sản. Đại hội chủ trương tiến hành giảm tô, cải cách ruộng đất, tạo ra điều kiện thuận lợi thúc đẩy cuộc kháng chiến thắng lợi.
Tại Thanh Hóa: Sau 5 năm vừa sản xuất vừa chiến đấu, xây dựng, bảo vệ hậu phương thực hiện vai trò căn cứ, hậu phương chiến lược của cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ của dân tộc, Đảng bộ và quân dân Thanh Hóa đã tạo ra những điều kiện to lớn trên tất cả các lĩnh vực.
Đối với sự nghiệp cách mạng khu vực miền Tây Thanh Hóa, dưới sự chỉ đạo chặt chẽ của Tỉnh ủy, chính quyền cách mạng từng bước được củng cố vững chắc, Đảng bộ các huyện miền núi lần lượt ra đời, đội ngũ cán bộ, đảng viên được tăng cường về số lượng và chất lượng, các tổ chức quần chúng được thành lập và tích cực hoạt động, lực lượng vũ trang cách mạng (bao gồm bộ đội địa phương, dân quân du kích) thông qua các chiến dịch chiến đấu giải phóng miền Tây đã trưởng thành trên nhiều phương diện và lập được thành tích xuất sắc... Sự lớn mạnh và trưởng thành của hệ thống chính trị và lực lượng cách mạng là nhân tố đảm bảo cho công cuộc kháng chiến kiến quốc của nhân dân miền Tây Thanh Hóa giành được những thắng lợi ngày càng to lớn hơn.
Tại Lang Chánh, hưởng ứng tuần lễ thi đua chào mừng Đảng Cộng sản Việt Nam ra hoạt động công khai do Tỉnh ủy phát động vào đầu năm 1951, Đảng bộ đã tích cực tổ chức lãnh đạo đồng bào các dân tộc trong huyện ra sức lao động sản xuất, thực hành tiết kiệm, phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội.
Trong không khí phấn khởi của Đảng bộ và nhân dân toàn huyện, tháng 8 - 1951, Đảng bộ huyện Lang Chánh đã tiến hành Hội nghị tại xã Giao An, đánh giá tình hình hoạt động của Đảng bộ, đề ra chủ trương nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ quê hương, góp phần cùng quân dân cả tỉnh, cả nước chuyển cuộc kháng chiến của dân tộc sang giai đoạn tổng phản công chiến lược, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ II của Đảng. Trong Hội nghị này, đồng chí Lê Đình Sằn, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã thay mặt Tỉnh ủy công bố quyết định của Tỉnh ủy cử đồng chí Hoàng Ngọc Tôn làm Bí thư Huyện ủy Lang Chánh (thay thế đồng chí Lê Huy Hiệu được Tỉnh ủy điều động đi nhận nhiệm vụ mới); cử đồng chí Trịnh Ban làm Bí thư Đảng đoàn Chính quyền và bổ sung một số đồng chí vào Ban Chấp hành Đảng bộ huyện. Sự kiện chính trị này đã tạo ra những điều kiện thuận lợi thúc đẩy công cuộc cách mạng trên địa bàn huyện Lang Chánh tiếp tục phát triển.
Nhằm tiếp tục triển khai đường lối Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ IV (tháng 5 - 1952), giữa năm 1952, Đảng bộ huyện Lang Chánh tổ chức Đại hội lần thứ nhất tại làng Cắm, xã Đồng Lương. Đại hội tiến hành thảo luận nội dung cơ bản Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ IV và đánh giá quá trình hoạt động từ ngày thành lập Đảng bộ đến nay, rút ra các mặt thành công và hạn chế. Đại hội đã đề ra nhiệm vụ trong thời kỳ mới như sau:
Một là, đẩy mạnh thi đua sản xuất thực hành tiết kiệm, phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, từng bước nâng cao tiềm lực vật chất và tinh thần của hậu phương kháng chiến.
Hai là, củng cố, phát triển lực lượng vũ trang nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng sẵn sàng đập tan các cuộc càn quét lấn chiếm của địch, bảo vệ vững chắc hậu phương, bảo vệ vùng biên giới, góp phần giữ vững khu vực miền Tây - một địa bàn chiến lược của Thanh Hóa.
Ba là, tăng cường công tác xây dựng Đảng về mọi mặt (chính trị, tư tưởng, tổ chức), nâng cao tính giai cấp và tinh thần trách nhiệm trước dân, trước Đảng. Tiếp tục củng cố chính quyền và các tổ chức quần chúng, tạo ra điều kiện đoàn kết, động viên mọi tầng lớp nhân dân tích cực tham gia kháng chiến kiến quốc.
Bốn là, Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ huyện, đồng chí Hoàng Ngọc Tôn được bầu làm Bí thư. Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ nhất thành công là sự kiện chính trị quan trọng đánh dấu sự trưởng thành nhanh chóng của Đảng bộ và phong trào cách mạng huyện Lang Chánh (đến Đại hội đã phát triển lên 8 chi bộ, bao gồm: Chi bộ Giao An, chi bộ Đồng Lương, chi bộ Quyết Thắng, chi bộ Tân Phúc, chi bộ Lê Lai, chi bộ Yên Khương và 2 chi bộ cơ quan cấp huyện).
Để tăng cường tiềm lực hậu phương trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa - xã hội, Huyện ủy đã chỉ đạo chính quyền các cấp tạo mọi điều kiện thuận lợi động viên, khuyến khích đồng bào các dân tộc thi đua sản xuất, tích cực học tập từng bước nâng cao dân trí cho các tầng lớp nhân dân.
Các phong trào sản xuất, tiết kiệm tiếp tục được phát động sôi nổi trong từng làng, bản. Bộ đội, dân quân du kích vừa tập luyện vừa giúp đỡ, hướng dẫn nhân dân sản xuất. Đồng bào các dân tộc phát rẫy, làm nương, chăn nuôi thêm trâu, bò, lợn, gà cải thiện đời sống gia đình và đóng góp cho kháng chiến. Các phong trào xóa mù chữ, bổ túc văn hóa tiếp tục phát triển sâu rộng. Bộ đội, dân quân, du kích vẫn là lực lượng nòng cốt, vừa là giáo viên tận tụy ngày đêm dạy cho đồng bào các dân tộc biết đọc, biết viết. Nhiều thanh niên, đoàn viên, nhiều chiến sĩ dân quân du kích nhờ học tập bổ túc văn hóa đã có trình độ phấn đấu trở thành cán bộ chủ chốt của các ngành, các cấp trong huyện.
Phong trào xây dựng nếp sống văn hóa mới được tiến hành khẩn trương, sâu rộng. Các phong tục, tập quán lạc hậu từng bước được xóa bỏ, nếp sống mới văn minh lành mạnh được hình thành, phát triển. Đồng bào các dân tộc ốm đau, bệnh tật được chính quyền, bộ đội quan tâm giúp đỡ, các ổ dịch bệnh được ngăn chặn và từng bước đẩy lùi. Bộ đội, nhân dân tổ chức các đêm văn nghệ tạo nên sự hào hứng phấn khởi trong đồng bào các dân tộc. Nền văn hóa cách mạng đã góp phần nâng cao dân trí, tạo dựng nếp sống vui tươi lành mạnh.
Chiến dịch Lê Lợi toàn thắng, quân đội thực dân Pháp bị quân dân ta đánh đuổi khỏi miền Tây. Nhưng với vị thế chiến lược trọng yếu của miền Tây, thực dân Pháp vẫn chưa từ bỏ âm mưu thôn tính miền Tây Thanh Hóa. Địch đã tập hợp bọn phản động và ngụy quân cả Lào và Việt, do sĩ quan Pháp chỉ huy lập đồn bốt tại biên giới Lào - Việt, tổ chức thành các toán phỉ quấy phá miền Tây Thanh Hóa và lôi kéo thổ ty, lang đạo xây dựng các tổ chức phản động làm nội ứng cung cấp tin tức tình báo cho chúng. Nhiều lần địch đã tổ chức lực lượng càn quét vào các xã Bát Mọt (Thường Xuân), Yên Khương và Lê Lai (Lang Chánh), Tam Lư, Sơn Thủy, Hiền Kiệt, Nam Động (Quan Hóa).
Ngày 01 - 10 - 1951, địch cho 1 đại đội càn quét làng Vần, xã Yên Khương. Do địch đánh bất ngờ, một bộ phận nhân dân tỏ ra hoang mang dao động. Để nắm tình hình địch, ổn định tư tưởng cho nhân dân và kịp thời tổ chức lực lượng chiến đấu chống càn quét, Huyện ủy Lang Chánh đã cử 2 đồng chí Thường vụ Huyện ủy (đồng chí Nhuệ và đồng chí Sót) về xã Yên Khương trực tiếp chỉ đạo các mặt hoạt động ở vùng giáp biên giới, nhờ đó tình hình cơ bản được ổn định.
Ngày 9 - 01 - 1952, một đại đội gồm 60 tên do 6 tên sĩ quan Pháp chỉ huy từ Sầm Tớ (Hủa Phăn) càn quét xuống xã Yên Khương lần thứ 2. Do nắm được tình hình địch, bộ đội và du kích huyện đã kịp thời tổ chức chiến đấu và loại khỏi vòng chiến đấu 6 tên địch, bên ta chỉ có 1 chiến sĩ bị thương. Cuối cùng địch phải rút về căn cứ. Cuối năm 1951, địch cho 1 đại đội càn quét xã Yên Khương, quân dân Lang Chánh đã tổ chức lực lượng, phục kích địch ở Pù Cút (Yên Khương) tiêu diệt 7 tên, làm bị thương nhiều tên. Ngày 17 - 02 - 1952, địch tiến hành càn quét, 3 đồng chí của ta hy sinh (đồng chí Trịnh, đồng chí Uôn, đồng chí Khang), du kích đã phục kích đánh địch, cuối cùng bọn địch phải rút chạy. Ngày 15 - 3 - 1952, du kích nhận tin giặc đánh từ Tam Lư sang Yên Khương (2 đại đội địch gồm 120 tên), do được chuẩn bị trước, nhân dân đã kịp thời bố trí vườn không, nhà trống và sơ tán an toàn. Trong cuộc càn quét này, các tên lang đạo Lang Văn Tùy và Lang Văn Tiền đã trốn theo giặc.
Như vậy, từ cuối năm 1951 đến đầu năm 1952, quân dân Lang Chánh dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy đã tổ chức nhiều trận chống càn quét, bảo vệ vững chắc quê hương.
Tháng 6 - 1952, một số tên lang đạo có thế lực như Trương Phúc Kim, Bùi Bá Mập, Trương Văn Mưng, Trương Văn Nơ, Trương Thái Kỳ do Trương Công Hội cầm đầu đã tổ chức ra cái gọi là Đảng Bảo Hoàng, gồm 83 tên. Bọn chúng đã bắt mối với bọn phỉ do Hai Phìa cầm đầu gây ra sự bất ổn về chính trị ở các huyện miền núi. Bọn phản động và thổ phỉ đã cướp tiền thuế, bắt cán bộ của các xã Ban Công, Long Vân, Quốc Thanh (Bá Thước) và mưu đồ bạo loạn cướp chính quyền. Nhưng do cảnh giác cách mạng cao, lực lượng công an kết hợp với bộ đội, du kích đập tan âm mưu bạo loạn của chúng, bắt một số tên cầm đầu. Mặc dù bị thất bại thảm hại nhiều lần, nhưng thực dân Pháp vẫn tiếp tay cho bọn lang đạo phản động, tổ chức phỉ ở nhiều nơi chống phá cách mạng, cướp bóc, hãm hiếp, bắt cóc cán bộ, bộ đội đi công tác lẻ, tập kích các đoàn dân công, kho tàng của Nhà nước... Bọn chúng đã tổ chức nhiều toán phỉ (mỗi toán cơ sở từ 100 - 200 tên) hoạt động ở các khu vực sông Lò, sông Luồng, sông Mã, Quốc Thành (Bá Thước), Lê Lai (Lang Chánh)...
Quyết bảo vệ miền Tây, giữ vững an ninh chính trị, trật tự xã hội, giữ vững con đường tiếp vận cho các chiến trường Bắc Việt Nam, Bắc Lào... Tỉnh ủy đã tăng cường cho các huyện miền núi nhiều cán bộ chính trị và điều động các Đại đội 128, 136, 185 bộ đội địa phương tỉnh kết hợp với công an, bộ đội, du kích, chính quyền nhân dân các huyện Lang Chánh, Bá Thước, Quan Hóa... tiến hành tiễu phỉ trừ gian. Đợt I, lực lượng tiễu phỉ kết hợp với quân dân huyện Lang Chánh tập trung tiêu diệt các toán phỉ co cụm ở xã Lê Lai (Lang Chánh), Quốc Thành (Bá Thước).
Ngày 13 - 12 - 1952, lực lượng của ta đã tổ chức thành 3 mũi tiến công vào bọn phỉ đóng ở làng Poọng và làng Ngày (xã Lê Lai - nay là xã Lâm Phú). Mũi thứ nhất gần một tiểu đoàn do đồng chí Hà Văn Ban chỉ huy xuất phát từ Pù Pạng (Quan Hóa) thọc xuống. Mũi thứ hai gồm bộ đội tỉnh và huyện Quan Hóa do đồng chí Thái Tứ chỉ huy từ xã Trung Hạ (Quan Hóa) tiến xuống làng Poọng. Mũi thứ ba gồm có bộ đội huyện Lang Chánh, du kích xã Lê Lai cùng với 2 đại đội chủ lực do đồng chí Bích chỉ huy từ Yên Khương đánh xuống Hón Sài. Quân ta nổ súng tấn công, bọn phỉ không chống cự nổi phải rút chạy.
Đúc kết kinh nghiệm trận đầu, 4 giờ sáng ngày 15 - 12 - 1952, ta bao vây phỉ ở làng Poọng, quân ta tiến hành công tác binh vận ráo riết và bắn chỉ thiên uy hiếp địch, toàn bộ bọn phỉ run sợ phải đem theo vũ khí đầu hàng và bị bắt gọn. Sau đó, quân ta tiến công tiêu diệt một bộ phận bọn phỉ ở làng Ngày, số còn lại rút chạy vào rừng.
Đợt I tại Lê Lai, quân ta đã tiêu diệt 44 tên, bắt sống 43 tên, thu 100 súng các loại; 230 viên đạn, 60 quả mìn, 92 lựu đạn và nhiều quân trang, quân dụng. Cũng trong thời gian này, ta bao vây cụm phỉ ở Quốc Thành tiêu diệt một số tên, bắt sống 30 tên, tên trùm phỉ Hai Phìa bị tiêu diệt tại trận.
Kết hợp với tiểu phỉ, lực lượng vũ trang huyện Lang Chánh đã trinh sát các tổ chức phản động do địch xây dựng, trừng trị những tên đầu sỏ, giáo dục khoan hồng những người lầm đường lạc lối, theo dõi truy quét những tên còn lẩn trốn, bổ sung cán bộ, đảng viên tốt, tăng cường củng cố chính quyền xã Lê Lai và xã Yên Khương, đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng, xây dựng lực lượng vũ trang ở vùng biên giới.
Đợt I, tuy tiêu diệt được một bộ phận sinh lực địch nhưng do công tác binh vận và địch vận chưa tốt nên phần lớn bọn phỉ trốn chạy không ra đầu hàng. Rút kinh nghiệm đợt I, trong đợt II bộ đội, công an đã kết hợp chặt chẽ với Đảng bộ, chính quyền, quân dân các huyện Quan Hóa, Bá Thước, Lang Chánh tuyên truyền, giáo dục, giác ngộ những gia đình có người theo phỉ kêu gọi khuyên nhủ con em trở về với cách mạng. Kết hợp với công tác binh vận, định vận, tháng 8 - 1953 các lực lượng tiễu phỉ đã bao vây, tấn công, gọi hàng bọn phỉ ở Hiền Kiệt, Tam Chung, Quang Chiểu, bắt sống 209 tên, tiêu diệt 34 tên. Ở Quốc Thành (Bá Thước) ta bắt sống 73 tên, tiêu diệt nhiều tên.
Tháng 10 - 1953, giặc Pháp cho 200 tên biệt kích nhảy dù xuống Mường Pao và 57 tên nhảy dù xuống Hồi Xuân, Phú Lệ tiếp viện và trấn an bọn phỉ. Trước tình hình đó, Tỉnh ủy quyết định mở chiến dịch tiễu phỉ đợt III. Được sự phối hợp giúp đỡ của nhân dân, lực lượng tiễu phỉ đã chiến đấu 100 trận, tiêu diệt 70 tên, bắt sống 96 tên, gọi hàng 600 tên, thu 855 súng các loại. Trong trận chiến đấu cuối cùng của chiến dịch, quân ta đã tấn công vào hang ổ của phỉ ở Mường Pao (Lào), gọi hàng 308 tên, bắt sống 200 tên ở Sầm Tớ, bắt toàn bộ bọn phỉ còn sót lại ở Sơn Thủy và Hiền Kiệt.
Kết thúc 3 đợt tiễu phỉ (tính đến tháng 8 - 1954), quân ta đã tiêu diệt và bắt sống 1.083 tên phỉ, thu toàn bộ vũ khí, quân trang, quân dụng. Thắng lợi của 3 đợt tiễu phỉ đã giữ vững sự yên bình cho đồng bào các dân tộc miền Tây Thanh Hóa, góp phần bảo vệ vững chắc căn cứ kháng chiến Lào Bắc của nước bạn Lào, giữ vững các con đường tiếp vận cho các chiến trường Bắc Việt và Bắc Lào, góp phần làm nên chiến thắng Thượng Lào (1953) và chiến thắng Điện Biên Phủ (1954). Trong chiến công to lớn của quân dân miền Tây, Đảng bộ, quân và dân Lang Chánh đã góp phần to lớn vẻ vang.
Sau đợt tiễu phỉ, Đảng bộ quân và dân Lang Chánh được Tỉnh ủy biểu dương khen ngợi. Chiến sĩ du kích Lương Văn Nhân đã lập thành tích xuất sắc được kết nạp vào Đảng Lao động Việt Nam, được công nhận là Chiến sĩ thi đua cấp Khu, được tặng thưởng Huân chương Chiến thắng hạng Ba. Các chiến sĩ Ngân Phi Ánh, Ngân Văn Cẩm, Phạm Thị Chứng, Ngân Văn OOng được công nhận là Chiến sĩ thi đua cấp tỉnh, hàng chục chiến sĩ du kích được công nhận là chiến sĩ thi đua cấp huyện.
Cùng với sản xuất và chiến đấu, xây dựng, bảo vệ hậu phương, Đảng bộ đã tổ chức lãnh đạo đồng bào các dân tộc trong huyện chi viện cao nhất, nhiều nhất sức người, sức của cho kháng chiến và chi viện giúp đỡ cách mạng Lào. Từ khi khu giải phóng Mường Xôi, Sầm Tớ - Xiềng Khọ hình thành, dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, Lang Chánh đã cử cán bộ xây dựng củng cố chính quyền cách mạng của bạn ở một số xã thuộc huyện Sầm Tớ (Hủa Phăn). Nhiều lần địch khủng bố, Ủy ban nhân dân huyện Mường Xôi phải sơ tán sang huyện Quan Hóa, Ủy ban nhân dân huyện Sầm Tớ sơ tán sang xã Yên Khương (Lang Chánh), Đảng bộ và nhân dân huyện Lang Chánh và xã Yên Khương đã hết lòng cưu mang, đùm bọc, giúp đỡ, bảo vệ các cơ quan của bạn.
Cuối năm 1950, Chính phủ kháng chiến Lào chuyển về Thanh Hóa để tổ chức lãnh đạo cuộc kháng chiến của nhân dân Lào. Lúc đầu, Chính phủ kháng chiến Lào đóng cơ quan tại xã Xuân Thiên (Thọ Xuân), sau đó chuyển về hang Hón Lòn, xã Giao An (Lang Chánh), Đảng bộ, nhân dân huyện Lang Chánh đã tích cực giúp bạn xây dựng lán trại, cung cấp lương thực và tuyệt đối giữ bí mật, bảo vệ an toàn cho Chính phủ kháng chiến Lào. Cùng với giúp đỡ, bảo vệ các đồng chí lãnh đạo của bạn, Đảng bộ, nhân dân Lang Chánh đã tận tình giúp đỡ 1 tiểu đoàn Pathet Lào và các đồng chí cán bộ Việt Nam làm cố vấn giúp Bạn (thời kỳ đó gọi tên bộ phận chuyên gia làm cố vấn giúp bạn là Phân khu A)
Cuộc kháng chiến của dân tộc chuyển sang giai đoạn tổng phản công chiến lược, nhiều chiến dịch lớn diễn ra đòi hỏi hậu phương phải chi viện đầy đủ sức người, sức của đảm bảo cho tiền tuyến giành chiến thắng. Nhằm chống phá hậu phương, ngăn cản sự chi viện cho tiền tuyến, các thế lực phản động thân Pháp ra sức tuyên truyền xuyên tạc bôi nhọ các chính sách về thuế nông nghiệp, về dân công tiếp vận tạo ra những khó khăn lớn trong việc huy động lực lượng hậu phương phục vụ kháng chiến. Để đáp ứng yêu cầu của tiền tuyến, Đảng bộ tỉnh phát động quần chúng đấu tranh chính trị chống lại bọn phản động lợi dụng dân tộc, tôn giáo cấu kết với địa chủ, phong kiến kích động quần chúng chống đối chính sách thuế nông nghiệp, chống đối chính sách động viên nhân tài, vật lực phục vụ kháng chiến.
Ngày 27 - 9 - 1952, Ban Thường vụ Tỉnh ủy tổ chức Hội nghị và đề ra những nhiệm vụ cụ thể như sau:
1. Phát động nhân dân đấu tranh chính trị, trừng trị bọn phản động tay sai giặc Pháp.
2. Vạch rõ âm mưu lợi dụng tôn giáo, dân tộc phá hoại kháng chiến của các thế lực phản động bán nước hại dân.
3. Xây dựng cơ sở vững chắc toàn diện về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa.
4. Đề cao tinh thần cảnh giác cách mạng trong cán bộ, nhân dân, nêu rõ nhiệm vụ kháng chiến kiến quốc, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân.
Để thực hiện các nhiệm vụ trên, Ban Thường vụ Tỉnh ủy yêu cầu phải dựa vào lực lượng đấu tranh của quần chúng cơ bản, giác ngộ những người lầm đường, lạc lối trở về với nhân dân. Mục tiêu đấu tranh tập trung vào các phương diện chính trị, tư tưởng, tổ chức. Nhưng chủ yếu tập trung vào đấu tranh chính trị, sửa chữa sai lầm về tư tưởng và tổ chức.
Rút kinh nghiệm nhân ra diện rộng, Tỉnh ủy tổ chức thí điểm ở 2 thôn Hàm Ninh và An Lão (xã Hoằng Lộc, huyện Hoằng Hóa), sau đó mở rộng trên địa bàn toàn tỉnh.
Thực hiện Chỉ thị của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Đảng bộ huyện Lang Chánh đã phát động đấu tranh chính trị trên địa bàn toàn huyện vào cuối năm 1952. Dưới sự chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, nhân dân Lang Chánh đã vùng lên đấu tranh vạch mặt, chỉ tên bọn lang đạo phản động đang lén lút chống phá cách mạng. Một số phần tử nằm trong các cấp chính quyền không chịu nộp thuế, hoặc dây dưa thuế cũng bị đưa ra đấu tranh. Một số phần tử trước đây đi theo phỉ bị ta bắt được khoan hồng nhưng không chịu cải tạo cũng được đưa ra ánh sáng… Đấu tranh chính trị đã hạ uy thế của bọn thổ ty, lang đạo, đề cao uy thế của nhân dân lao động và uy tín của chính quyền cách mạng, đã tạo ra điều kiện cần thiết động viên toàn xã hội thực hiện triệt để chính sách thuế nông nghiệp và chính sách tổng động viên phục vụ kháng chiến của Đảng.
Về huy động thuế nông nghiệp: Vụ mùa năm 1951, thực hiện chính sách thuế nông nghiệp của Đảng và Chính phủ, đồng bào các dân tộc Lang Chánh đã giành thóc ngon, thóc tốt, phơi khô, sảy sạch, xuyên rừng, vượt suối gánh thóc nhập kho Nhà nước. Vụ chiêm - xuân năm 1952, Lang Chánh đã hoàn thành kế hoạch nộp thuế 100%, nhưng đến vụ mùa năm 1952 việc huy động thuế gặp rất nhiều khó khăn do bọn lang đạo câu kết với địa chủ phong kiến kích động nhân dân không nộp thuế. Bọn phản động ở xã Yên Khương đã mua chuộc, lôi kéo một số cán bộ đem theo cả tiền thuế chạy sang Lào theo Pháp… Nhưng sau khi tiến hành đấu tranh chính trị, bọn lang đạo phản động bị vạch mặt, việc thực hiện chính sách thuế nông nghiệp được tiến hành thông suốt và đạt kết quả tốt. Huyện Lang Chánh liên tục được Ủy ban Kháng chiến hành chính tỉnh biểu dương về thành tích nộp thuế nông nghiệp đúng kỳ hạn, vượt chỉ tiêu kế hoạch.
Về thực hiện chính sách tổng động viên phục vụ tiền tuyến: Sau chiến dịch Biên giới, cuộc kháng chiến của dân tộc chuyển sang thời kỳ tổng phản công chiến lược, việc huy động sức người, sức của phục vụ các chiến dịch lớn đòi hỏi ngày càng gia tăng. Đảng bộ, nhân dân Lang Chánh ý thức đầy đủ nghĩa vụ và trách nhiệm của hậu phương đối với tiền tuyến, đã tích cực huy động lực lượng bổ sung cho quân đội, huy động dân công, lương thực, thực phẩm phục vụ bộ đội ăn no đánh thắng. Trước đấu tranh chính trị, việc huy động bộ đội, dân công phục vụ các chiến dịch gặp nhiều khó khăn, nhưng trong đấu tranh chính trị và sau đấu tranh chính trị, các phần tử lang đạo phản động chống đối chính sách tổng động viên của Đảng và Chính phủ bị trừng trị, đồng bào các dân tộc Lang Chánh ý thức về giai cấp, về các mạng, về kháng chiến được nâng lên, do vậy nhiệm vụ huy động lực lượng phục vụ kháng chiến thuận lợi hơn. Cụ thể là: Trong chiến dịch Tây Bắc (năm 1952) Đảng bộ và chính quyền huyện đã huy động 300 dân công phục vụ bộ đội đạt thành tích tốt, đồng thời đã huy động hàng trăm thanh niên gia nhập bộ đội và thanh niên xung phong chiến đấu, công tác trên các chiến trường lập công xuất sắc.
Trong thực hiện đấu tranh chính trị, đã đạt được những thành công to lớn, nhưng đã phạm những sai lầm nghiêm trọng như: Xác định đối tượng không chuẩn xác, không phân biệt rõ địch ta, bắt giam và đấu tố cả quần chúng tốt; phương pháp chỉ đạo thiếu sâu sát, cụ thể, phương pháp đấu tranh cực đoan thiếu tính giáo dục chính trị, cải tạo tư tưởng… Vì vậy, đã tạo ra sự lo sợ trong quần chúng, ảnh hưởng không tốt đến khối đại đoàn kết toàn dân, làm lực lượng cách mạng bị suy yếu. Đau xót nhất là nhiều cán bộ, đảng viên, quần chúng tốt bị quy oan là Việt gian phản động làm tay sai cho địch…
Kịp thời sửa chữa sai lầm, khuyết điểm trong đấu tranh chính trị có tính chất tự phát ở Liên khu IV, Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ thị ngừng đấu tranh chính trị và kiểm điểm rút kinh nghiệm. Các cấp ủy Đảng trong tỉnh, trong đó có Huyện ủy Lang Chánh đã nghiêm túc kiểm điểm rút ra những bài học kinh nghiệm để tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên.
Sau đấu tranh chính trị, ngày 15 - 6 - 1953, Tỉnh ủy quyết định điều động đồng chí Hoàng Ngọc Tôn đi học, cử đồng chí Lưu Trần Nhuệ làm Bí thư Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Lang Chánh.
Lãnh đạo nhân dân bảo vệ vững chắc hậu phương, chi viện sức người, sức của góp phần kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi
Cuối tháng 6 - 1953, Đảng bộ huyện Lang Chánh Đại hội lần thứ II đánh giá hoạt động trong một nhiệm kỳ và đề ra phương hướng nhiệm vụ mới; tiếp tục cùng toàn Đảng, toàn dân tộc đưa cuộc kháng chiến đi đến thắng lợi cuối cùng. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ huyện, gồm 9 đồng chí, bầu đồng chí Lưu Trần Nhuệ làm Bí thư, đồng chí Lê Văn Sót làm Phó Bí thư.
Sau chiến dịch Tây Bắc, cách mạng Việt Nam và cách mạng Lào có điều kiện mở rộng quan hệ hợp tác chiến đấu. Trung ương Đảng, Chính phủ và Bộ Quốc phòng hai nước đã quyết định mở chiến dịch Thượng Lào nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, mở rộng vùng giải phóng Bắc Lào. Trung ương Đảng, Chính phủ đã giao cho Đảng bộ, nhân dân Thanh Hóa cung cấp, vận chuyển toàn bộ lương thực, thực phẩm cho chiến dịch. Để huy động và chỉ huy toàn bộ lực lượng phục vụ tiền tuyến, Tỉnh ủy đã chỉ đạo thành lập Ban Dân công cấp tỉnh và cấp huyện. Ngày 18 - 4 - 1953, dân công các huyện đã nhận hàng của Hội đồng cung cấp tiền phương tại kho Lược (Thọ Xuân) và kho Cẩm Thủy vận chuyển ra tiền phương. Cùng với tuyến vận chuyển đường bộ, Thanh Hóa tổ chức thêm tuyến vận chuyển đường thủy từ trạm Vạn Mai đến trạm Mường Lát.
Dân công Thanh Hóa trên bộ, dưới thuyền rầm rập tiến ra chiến trường. Trong đợt phục vụ chiến dịch Thượng Lào, Đảng bộ, nhân dân Lang Chánh được Tỉnh ủy và Ủy ban Hành chính kháng chiến tỉnh giao nhiệm vụ đốn gỗ, luồng bắc cầu, làm bè cho bộ đội, dân công ra tiền tuyến. Trong hai tháng lao động khẩn trương, Lang Chánh đã xây dựng hàng chục cầu phao bắc qua khe, suối trên tuyến đường 15A, góp phần làm nên chiến thắng Thượng Lào vang dội.
Cuối năm 1953, đầu năm 1954, Bộ Chính trị Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch lớn đập tan kế hoạch Na-va và tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Chuẩn bị tiềm lực phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, Tỉnh ủy tổ chức Hội nghị mở rộng quán triệt mục đích, ý nghĩa. Tại Hội nghị, Tỉnh ủy đã chỉ rõ:
- Dân công lần này có tính chất liên tục, nhiều đợt. Nhiệm vụ này sắp sửa hoàn thành phải chuẩn bị cho nhiệm vụ khác. Vừa làm đường, làm cầu, kho trạm vừa huy động lương thực, thực phẩm, vừa tổ chức vận chuyển, do đó đòi hỏi tinh thần phục vụ dài ngày bền bỉ, liên tục.
- Dân công đợt này thời gian gấp rút, luôn luôn thay đổi về số lượng, do đó phải có kế hoạch chu đáo và phải thường xuyên có lực lượng dự trữ.
- Nhiệm vụ lần này thực hiện song song đồng thời với nhiều mặt công tác, vì vậy đòi hỏi phải đảm bảo số lượng và thời gian quy định.
Thực hiện Nghị quyết của Tỉnh ủy, đồng bào các dân tộc Thanh Hóa, từ miền núi đến miền xuôi, từ đồng bằng đến vùng biển, đâu đâu cũng hừng hực quyết tâm “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”. Hòa trong khí thế chung của cả tỉnh, Đảng bộ Lang Chánh đã tổ chức chỉ đạo nhân dân chuẩn bị đầy đủ mọi mặt chuẩn bị phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử.
Cùng với huy động dân công cho chiến dịch Điện Biên Phủ, huyện Lang Chánh đảm nhận thêm nhiệm vụ tu sửa và làm cầu trên tuyến đường 15A, khai thác vận chuyển gỗ, luồng, nứa xây dựng lán trại, kho trạm đón tiếp dân công, bộ đội hành quân trên địa bàn huyện. Tính đến tháng 1 - 1954, bằng tinh thần nỗ lực phấn đấu, Đảng bộ, nhân dân Lang Chánh đã làm xong 5 cầu gỗ và sửa chữa xong đoạn đường 15A đi trên địa bàn huyện.
Đoàn dân công phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ của huyện Lang Chánh gồm 350 chiến sĩ, do một đồng chí Thường vụ Huyện ủy chỉ huy được chuẩn bị đầy đủ về tinh thần và vật chất phấn khởi lên đường. Các cụ thì đan sọt, đan bồ; các mẹ, các chị quyên góp quần áo, lương thực, thực phẩm, thuốc men ủng hộ dân công. Chính quyền và và các tổ chức quần chúng thực hiện các chính sách đối với gia đình có người tham gia dân công. Các chiến sĩ dân công Lang Chánh đã cùng với dân công các huyện trong tỉnh vượt đèo, lội suối gánh gạo, gánh đạn, cứu chữa thương binh. Bộ đội ở đâu, dân công Thanh Hóa, dân công Lang Chánh có mặt ở đó. Dù cho cơm vắt, ngủ hầm, bom gầm, đạn réo, các chiến sĩ dân công vẫn dũng cảm, ngoan cường phục vụ bộ đội chiến đấu và chiến thắng. Chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng. Đoàn dân công Lang Chánh vinh dự có đồng chí được công nhận là Chiến sĩ thi đua cấp khu, 9 đồng chí được công nhận là Chiến sĩ thi đua cấp tỉnh, 19 đồng chí được Trạm cung cấp tiền phương 104 tặng Bằng khen, ông Hà Văn Hưng (xã Giao Thiện) lập thành tích xuất sắc được tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba.
Như vậy, Đảng bộ, nhân dân Lang Chánh đã góp phần làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ - chiến thắng vĩ đại nhất trong kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, góp phần thủ tiêu chủ nghĩa thực dân kiểu cũ của Pháp ở Việt Nam và các nước Đông Dương, thúc đẩy, cổ vũ nhân dân các nước thuộc địa vùng lên giành độc lập, tự do.
Trong dịp vào thăm Thanh Hóa lần thứ 2 vào năm 1957, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khen ngợi: “Bây giờ tiếng Việt Nam đến đâu, tiếng Điện Biên Phủ đến đó. Tiếng Điện Biên Phủ đến đâu đồng bào Thanh Hóa cũng có một phần vinh dự đến đó”. Trong niềm vinh dự, tự hào chung của nhân dân toàn tỉnh, đồng bào các dân tộc Lang Chánh có phần vinh dự, tự hào to lớn.
Nhân tố đảm bảo cho sự nghiệp kháng chiến kiến quốc trên địa bàn Lang Chánh gặt hái được thành tựu vẻ vang, trước hết là vai trò lãnh đạo của Đảng bộ huyện. Đảng bộ Lang Chánh ngay từ khi mới ra đời đã tích cực học tập, nắm vững và vận dụng sáng tạo, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Chính phủ, nhờ đó sự vận động cách mạng trên địa bàn Lang Chánh đã phát triển đúng hướng và tất thắng. Trong hoạt động thực tiễn, cán bộ, đảng viên đã đồng cam, cộng khổ với nhân dân, tiền phong gương mẫu trong hành động, tận tụy công tác, dũng cảm chiến đấu, tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân. Từ một chi bộ Đảng với 4 đảng viên, các chiến sĩ cộng sản đã tích cực tuyên truyền, giáo dục, bồi dưỡng kết nạp hàng chục quần chúng ưu tú trong đồng bào các dân tộc Lang Chánh vào Đảng. Nhờ đó, đến năm 1953, Đảng bộ Lang Chánh đã phát triển lên 127 đảng viên sinh hoạt trong 8 chi bộ xã và cơ quan. Đó là Chi bộ Lê Lai (10 đảng viên), Chi bộ Yên Khương (12 đảng viên), Chi bộ Đồng Lương (15 đảng viên), Chi bộ Quyết Thắng (19 đảng viên), Chi bộ Giao An (21 đảng viên), Chi bộ Tân Phúc (17 đảng viên), Chi bộ Dân - Chính - Đảng (15 đảng viên), Chi bộ quân sự (18 đảng viên). Trong quá trình hoạt động, Đảng bộ đã giới thiệu đề bạt những đồng chí có năng lực lãnh đạo và trung thành vào các cương vị chủ chốt. Thông qua các cuộc chỉnh đốn Đảng, Đảng bộ đã không ngừng nâng cao tính giai cấp, tinh thần trách nhiệm, ý chí phấn đấu… Công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức đã đảm bảo cho Đảng bộ lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối, trực tiếp sự nghiệp cách mạng trên địa bàn Lang Chánh.
Cùng với xây dựng Đảng, Đảng bộ đã thường xuyên xây dựng, củng cố hệ thống chính quyền các cấp. Các phần tử lang đạo phản động, cơ hội, thoái hóa, biến chất lần lượt bị đào thải. Những cán bộ, đảng viên tốt được đề bạt nắm giữ các chức vụ quan trọng trong chính quyền và các tổ chức quần chúng.
Đối với lực lượng vũ trang nhân dân - công cụ chuyên chính sắc bén của Đảng, của nhân dân, được Đảng bộ quan tâm tổ chức lãnh đạo. Nhờ đó, đã không ngừng phát triển, trưởng thành và lập được nhiều thành tích trong chiến đấu, bảo vệ quê hương. Tính đến năm 1954, lực lượng dân quân du kích trên địa bàn toàn huyện đã bằng 1/5 dân số với 2.107 chiến sĩ (Đồng Lương: 135 dân quân, 34 du kích; Giao An: 247 dân quân, 97 du kích; Yên Khương: 206 dân quân, 53 du kích; Lê Lai: 605 dân quân, 55 du kích; Tân Phúc: 244 dân quân, 43 du kích; Quyết Thắng: 336 dân quân, 52 du kích). Dân quân du kích là lực lượng nòng cốt trong sản xuất, chiến đấu, đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trong từng thôn bản; đồng thời là lực lượng giữ gìn, bảo vệ, xây dựng khối đoàn kết trong đồng bào các dân tộc.
Sau khi giành được chính quyền, Đảng bộ và nhân dân Lang Chánh đã thực hiện những việc cấp bách nhằm tăng cường thực lực cho cách mạng: xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân; củng cố, phát triển lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang; đấu tranh, vô hiệu hóa các thế lực phản cách mạng, chống giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm; lãnh đạo, vận động nhân dân kháng chiến, kiến quốc.
Chín năm kháng chiến đầy gian khổ, hy sinh, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, đồng bào các dân tộc Lang Chánh đã chung lưng, đấu cật đoàn kết chiến đấu, xây dựng, bảo vệ chế độ dân chủ nhân dân, tăng cường tiềm lực hậu phương chi viện cao nhất, nhiều nhất sức người, sức của cho kháng chiến thắng lợi và tạo ra điều kiện cơ bản tiếp tục phát triển. Lịch sử Đảng bộ và phong trào cách mạng huyện Lang Chánh chuyển sang thời kỳ mới - thời kỳ cùng toàn Đảng, toàn dân thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Phần 3: Sẽ tiếp tục được cập nhật
Ngọc Thỏa Trung Tâm VHTT-TT&DL huyện